Ngày 21/9
Thánh Phanxicô Phan
(FranCois JACCARD - PHAN)
Linh mục Hội Thừa Sai Paris
(1799 - 1833)
i. tIỂU SỬ
(FranCois JACCARD - PHAN)
Linh mục Hội Thừa Sai Paris
(1799 - 1833)
i. tIỂU SỬ
Một thời gian ngắn, con không phải chịu đau khổ nữa,
con ước ao chết vì đạo thánh ở đất nước này.
Xin mẹ cầu cùng Chúa cho con sớm mãn nguyện.
con ước ao chết vì đạo thánh ở đất nước này.
Xin mẹ cầu cùng Chúa cho con sớm mãn nguyện.
Thánh François Jaccard - Phan chào đời ngày 06-9-1799 tại làng Onion, thuộc miền Savoie, nước Pháp, trong một gia đình sùng đạo. Cho dầu sống giữa thời cách mạng Pháp (1789) nhưng song thân chuyên tâm cho con cái có được nền giáo dục Kitô giáo.
Cậu Jaccard dịu dàng, hiền hậu, nhưng gặp nhiều chướng ngại trên đường học vấn do chậm trí khôn, thiếu trí nhớ. Sau khi theo học trường làng, rồi vào chủng viện, nhưng không thành công, cậu chấp nhận trở về gia đình sống đời nông dân.
Một ngày kia, gặp lại các bạn đồng môn và được họ khuyến khích, cậu Jaccard trình bày với song thân và xin trở lại Chủng viện Mélan, rồi lên Đại Chủng viện Champery, và xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Sau khi được thụ phong linh mục, cha tình nguyện lên đường truyền giáo.
Ngày 10-7-1823, cha xuống tàu đến Ấn Độ hơn 1 năm, sau đó tiếp tục đi Ma Cao rồi qua ngã Lạch Đáy vào miền Bắc. Ngày 05-01-1826, cha Jaccard đến Nhà chung Giáo phận Đàng Trong, học tiếng Việt, lấy tên Việt là Jaccard - Phan và được bổ nhiệm làm mục vụ tại họ đạo Nhu Lý và Phủ Cam, kiêm nhiệm Chủng viện An Ninh.
Tuy vua Minh Mạng đã ra sắc chỉ cấm đạo, nhưng vua vẫn quy tụ các giáo sĩ thừa sai về kinh đô Huế để giúp triều đình dịch các tài liệu và bản đồ bằng ngoại ngữ sang tiếng Việt, hậu ý là cầm chân các thừa sai tại Huế để ngăn việc truyền giáo.
Bị tố cáo giảng đạo bất hợp pháp, cha Jaccard - Phan bị cầm giữ, giải ra công đường huyện Hương Trà, rồi đến Phủ Thừa Thiên, kèm thêm lệnh giao nộp áo lễ, đồ đạo, sách lễ và ảnh tượng. Bản án xử tử đầu tiên của linh mục Jaccard - Phan được đổi sang “xử tử giam hậu” (cứ giam đã, sau mới xử).
Trên thực tế, vua đòi ngài vào sống trong cung để làm thông dịch viên. Thời gian này (1832-1833), nhiều lần ngài diện kiến vua Minh Mạng. Chiều theo ý mẫu hậu, vua Minh Mạng đổi án tử của ngài thành án lưu đày chung thân tại đèo Lao Bảo (gần biên giới Lào).
Năm 1835, vua Minh Mạng ra lệnh triệu hồi linh mục Jaccard - Phan về Cam Lộ, tiếp tục công việc phiên dịch và dạy tiếng Pháp. Trong thư gửi về cho thân mẫu, ngài viết: “Biệt xa mẹ đến nay đã 15 năm! Đã biết bao khổ cực đè nặng trên vai con hầu như quá sức loài người... Tuy nhiên, con vẫn giữ trọn niềm tin: Trong một thời gian ngắn con không còn phải chịu đau khổ nữa, con ước ao chết vì đạo thánh ở đất nước này. Xin mẹ cầu cùng Chúa cho con sớm mãn nguyện”.
Mùa Xuân năm 1838, linh mục Candalh - Kim bạo gan mở chủng viện tại Di Loan và An Ninh, gần Cam Lộ. Được mật báo, nhà vua hạ lệnh cho quan về điều tra tại địa phương nhưng không tìm được dấu vết liên lạc giữa linh mục Jaccard - Phan và chủng viện. Chủng viện An Ninh gần Di Loan bị triệt hạ, cha giám đốc Kandalh Kim chạy thoát vào núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan là “kẻ thông đồng”.
Ngày 17-3-1838, cha bị áp giải về Quảng Trị. Quan giám sát thẩm vấn: “Tại sao ông gửi những sách vở đến Di Loan?” Cha Jaccard - Phan điềm tĩnh trả lời: “Vì tôi là linh mục, nghĩa vụ của tôi là dạy họ đọc các sách nói về đạo, tôi không thể đốt số sách đó”.
Quan giám sát tỏ vẻ hằn học, cho lính canh đánh cha Jaccard - Phan 40 roi và truyền lệnh phơi nắng cho đến chiều tà và phải chịu nhiều cực hình. Khi lết về đến nhà tù, thấy chủng sinh Trần Văn Thiện, cha Phan thì thào: “Dù sao đi nữa, chúng ta cũng phải trung kiên cho đến cùng”.
Cuối cùng bản án triều đình cũng về đến tỉnh Quảng Trị. Cha ước nguyện được gặp một linh mục để nhận lãnh Bí tích Hòa giải, nhưng sợ trước khi thi hành án sẽ có vòng vây kiểm soát nghiêm ngặt, chắc sẽ khó gặp được linh mục. Thế nên, khi cha An từ Huế ra, giáo dân đã nhắn tin:Trên đường ra pháp trường, đoàn quan quân và hai tử tội sẽ dừng chân tại quán nước bên đường. Khi linh mục Jaccard - Phan và chủng sinh Thiện cúi đầu đấm ngực ba lần, thì xin cha già An giơ tay giải tội từ xa cho các ngài.
Sáng ngày 21-9-1838, tại pháp trường Nhan Biều, cha Jaccard - Phan và chủng sinh Thiện bị xử giảo. Theo lệnh quan, thi hài hai vị được quấn vào chiếu và an táng bên bờ sông. Bà mẹ của cha Phan hay tin đã reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo. Xin chúc tụng Chúa. Tôi đã sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ và cực hình”. Năm 1847, hài cốt hai vị được cải táng đưa về tôn kính tại Nguyện đường Hội Thừa Sai Paris.
Cậu Jaccard dịu dàng, hiền hậu, nhưng gặp nhiều chướng ngại trên đường học vấn do chậm trí khôn, thiếu trí nhớ. Sau khi theo học trường làng, rồi vào chủng viện, nhưng không thành công, cậu chấp nhận trở về gia đình sống đời nông dân.
Một ngày kia, gặp lại các bạn đồng môn và được họ khuyến khích, cậu Jaccard trình bày với song thân và xin trở lại Chủng viện Mélan, rồi lên Đại Chủng viện Champery, và xin gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Sau khi được thụ phong linh mục, cha tình nguyện lên đường truyền giáo.
Ngày 10-7-1823, cha xuống tàu đến Ấn Độ hơn 1 năm, sau đó tiếp tục đi Ma Cao rồi qua ngã Lạch Đáy vào miền Bắc. Ngày 05-01-1826, cha Jaccard đến Nhà chung Giáo phận Đàng Trong, học tiếng Việt, lấy tên Việt là Jaccard - Phan và được bổ nhiệm làm mục vụ tại họ đạo Nhu Lý và Phủ Cam, kiêm nhiệm Chủng viện An Ninh.
Tuy vua Minh Mạng đã ra sắc chỉ cấm đạo, nhưng vua vẫn quy tụ các giáo sĩ thừa sai về kinh đô Huế để giúp triều đình dịch các tài liệu và bản đồ bằng ngoại ngữ sang tiếng Việt, hậu ý là cầm chân các thừa sai tại Huế để ngăn việc truyền giáo.
Bị tố cáo giảng đạo bất hợp pháp, cha Jaccard - Phan bị cầm giữ, giải ra công đường huyện Hương Trà, rồi đến Phủ Thừa Thiên, kèm thêm lệnh giao nộp áo lễ, đồ đạo, sách lễ và ảnh tượng. Bản án xử tử đầu tiên của linh mục Jaccard - Phan được đổi sang “xử tử giam hậu” (cứ giam đã, sau mới xử).
Trên thực tế, vua đòi ngài vào sống trong cung để làm thông dịch viên. Thời gian này (1832-1833), nhiều lần ngài diện kiến vua Minh Mạng. Chiều theo ý mẫu hậu, vua Minh Mạng đổi án tử của ngài thành án lưu đày chung thân tại đèo Lao Bảo (gần biên giới Lào).
Năm 1835, vua Minh Mạng ra lệnh triệu hồi linh mục Jaccard - Phan về Cam Lộ, tiếp tục công việc phiên dịch và dạy tiếng Pháp. Trong thư gửi về cho thân mẫu, ngài viết: “Biệt xa mẹ đến nay đã 15 năm! Đã biết bao khổ cực đè nặng trên vai con hầu như quá sức loài người... Tuy nhiên, con vẫn giữ trọn niềm tin: Trong một thời gian ngắn con không còn phải chịu đau khổ nữa, con ước ao chết vì đạo thánh ở đất nước này. Xin mẹ cầu cùng Chúa cho con sớm mãn nguyện”.
Mùa Xuân năm 1838, linh mục Candalh - Kim bạo gan mở chủng viện tại Di Loan và An Ninh, gần Cam Lộ. Được mật báo, nhà vua hạ lệnh cho quan về điều tra tại địa phương nhưng không tìm được dấu vết liên lạc giữa linh mục Jaccard - Phan và chủng viện. Chủng viện An Ninh gần Di Loan bị triệt hạ, cha giám đốc Kandalh Kim chạy thoát vào núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan là “kẻ thông đồng”.
Ngày 17-3-1838, cha bị áp giải về Quảng Trị. Quan giám sát thẩm vấn: “Tại sao ông gửi những sách vở đến Di Loan?” Cha Jaccard - Phan điềm tĩnh trả lời: “Vì tôi là linh mục, nghĩa vụ của tôi là dạy họ đọc các sách nói về đạo, tôi không thể đốt số sách đó”.
Quan giám sát tỏ vẻ hằn học, cho lính canh đánh cha Jaccard - Phan 40 roi và truyền lệnh phơi nắng cho đến chiều tà và phải chịu nhiều cực hình. Khi lết về đến nhà tù, thấy chủng sinh Trần Văn Thiện, cha Phan thì thào: “Dù sao đi nữa, chúng ta cũng phải trung kiên cho đến cùng”.
Cuối cùng bản án triều đình cũng về đến tỉnh Quảng Trị. Cha ước nguyện được gặp một linh mục để nhận lãnh Bí tích Hòa giải, nhưng sợ trước khi thi hành án sẽ có vòng vây kiểm soát nghiêm ngặt, chắc sẽ khó gặp được linh mục. Thế nên, khi cha An từ Huế ra, giáo dân đã nhắn tin:Trên đường ra pháp trường, đoàn quan quân và hai tử tội sẽ dừng chân tại quán nước bên đường. Khi linh mục Jaccard - Phan và chủng sinh Thiện cúi đầu đấm ngực ba lần, thì xin cha già An giơ tay giải tội từ xa cho các ngài.
Sáng ngày 21-9-1838, tại pháp trường Nhan Biều, cha Jaccard - Phan và chủng sinh Thiện bị xử giảo. Theo lệnh quan, thi hài hai vị được quấn vào chiếu và an táng bên bờ sông. Bà mẹ của cha Phan hay tin đã reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo. Xin chúc tụng Chúa. Tôi đã sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ và cực hình”. Năm 1847, hài cốt hai vị được cải táng đưa về tôn kính tại Nguyện đường Hội Thừa Sai Paris.
Linh mục Francois Jaccard - Phan được nâng lên hàng chân phước ngày 27-5-1900 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
Cầu cho những vị thừa sai
Thánh Phanxicô Jaccard Phan chào đời ngày 06/9/1799 tại Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia đình nghèo, đạo đức. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện Mélan, cậu Jaccard học yếu nên đâm ra chán nản và trốn về gia đình. Nhưng sau, với sự chuyên cần và nỗ lực, cậu hoàn thành chương trình chủng viện Mélan, rồi được lên đại chủng viện giáo phận Chambery. Hai năm sau, thầy Jaccard xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục năm 24 tuổi (ngày 15/3/1823). Liền đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện, nhưng cha thẳng thắn trình bày với các bề trên: "Con tình nguyện vào đây để đi truyền giáo phương xa, chứ không phải để ở lại thành phố Paris này."
Bốn tháng sau (ngày 10/7/1823), cha giã từ quê hương yêu dấu lên đường truyền giáotại Việt Nam và lấy tên tiếng Việt là Phan.
Tháng 6/1827, vua Minh Mạng tập trung về Huế các vị thừa sai: cha Tabert Từ, cha Gagelin Kính, cha Odorico Phương viện cớ cần người thông ngôn và dịch sách. Ở hoàng cung các cha được đối xử tử tế, ngoài việc thông ngôn và dịch sách các ngài có thể đi làm việc mục vụ cho giáo hữu nhưng như bị giam lỏng lúc nào cũng có lính gác đi kèm.
Thấy ở cung quán không làm việc tông đồ được, cha Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây số, để vừa giúp các tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung.
Đang tạm yên trong công việc phiên dịch, thì cha bị tố cáo là lén lút giảng đạo. Lập tức 73 người liên hệ bị giam tù, mỗi người lãnh 100 roi đòn, viên phó lý bị lưu đầy, Lý trưởng và cha Phan bị án tử hình. Tuy nhiên, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo với cha Phan. Vua cho điệu cha về giam lỏng ở cung quán để tiếp tục làm phiên dịch. Giai đoạn này cha Phan nhiều lần tiếp xúc với vua Minh Mạng. Vị tông đồ của Chúa liền tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lý trong đạo... Sau sắc lệnh cấm đạo toàn quốc, mỗi đêm cha Phan âm thầm dâng lễ ở cung quán rồi giấu đồ lễ ở sàn nhà.
Thời gian này miền Nam có cuộc nổi loạn. Vua Minh Mạng nghe đồn các tín hữu tham gia rất đông, nên lo sợ trút cơn thịnh nộ lên cha Phan và truyền xử tử ngài. May có sự can thiệp của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên nên bản án được đổi thành lưu đày chung thân tại biên giới Lào. Ở đây, cha Phan tiếp tục làm việc tông đồ trong trại giam, học tiếng Lào để nếu có cơ hội sẽ đi truyền giáo. Cha cũng soạn được một cuốn ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.
Tháng 9/1835, vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ (Quảng trị) để làm giáo sư dạy cho sáu thanh niên học tiếng Pháp nhưng vua cấm cha không được truyền đạo cho họ. Đầu năm 1838, khi triệt hạ chủng viện An Ninh gần Di Loan, cha giám đốc Candalk Kim chạy thoát lên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan. Ngày 07/3 cha bị bắt trói, bị hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.
Tại Quảng Trị, quan cho đánh đòn cha từ 9 giờ đến trưa để bắt cha phải bỏ đạo. Lần khác, cha bị tra tấn bằng kìm nung đỏ kẹp vào đùi, thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không chối đạo.
Từ 18/7/1838, cha được giam chung với chủng sinh Tôma Thiện. Bản án từ Quảng Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh Mạng đổi thành xử giảo và ký ngày 17/9. Sáng ngày 21/9/1838, quan quân dẫn hai cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều (Quảng Trị) để xử án. Quân lính vòng dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa linh hồn ngài về Thiên Quốc.
Thi hài vị tử đạo được chôn cất ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng về chủng viện Thừa Sai Paris.
Mẫu gương của cha Phanxicô Jaccard Phan cho ta thấy tấm lòng hy sinh lớn lao của các nhà truyền giáo: cha đã hy sinh rời bỏ quê hương, hy sinh sự nghiệp, dấn thân quên mình. Đàng khác, cha Phan được làm việc trong một môi trường không phải ai cũng có thể có được. Sống trong triều đình, bên cạnh các sắc lệnh tử hình vì cấm đạo có thể ban ra vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, cha không sợ và không bỏ cuộc.
Xin Chúa cho chúng ta lòng yêu mến và ơn can đảm, để chúng ta dấn thân truyền rao Tin Mừng của Chúa đến trong môi trường chúng ta đang sống, can đảm làm chứng dù phải hy sinh tính mạng của mình. Amen