Ngày 24/7
Thánh Giuse Fer-nan-de Hiền
(JOSE FERNANDEZ - HIỀN)
Linh mục Dòng Đa Minh (1775-1838)
I. Tiểu sử
(JOSE FERNANDEZ - HIỀN)
Linh mục Dòng Đa Minh (1775-1838)
I. Tiểu sử
Tôi đến đây không phải để phục vụ vua chúa trần gian này
mà chỉ để rao giảng Đạo Đức Chúa Trời thôi.
mà chỉ để rao giảng Đạo Đức Chúa Trời thôi.
Ngày 03-12-1775, một gia đình nhỏ thuộc Giáo phận Avila, vương quốc Tây Ban Nha, hân hoan đón chú bé Jose Fernandez chào đời. Gia đình đã dưỡng dục Jose Fernandez trong môi trường đạo đức Kitô giáo.
Ơn gọi tu trì nảy mầm trong tâm hồn nhờ gương sáng đạo đức của gia đình. Khi lớn khôn, được cha mẹ khuyến khích, chú Fernandez đã xin nhập dòng Đa Minh.
Thầy Fernandez khấn lần đầu trong dòng Đa Minh ở tuổi 27 tại Tu viện Thánh Phaolô và tiếp tục học thần học tại học viện của dòng. Sau khi thụ phong linh mục, cha Fernandez tình nguyện gia nhập Tỉnh hạt Rất Thánh Mân Côi ở Philippines và đáp tàu đến Manila để thực hiện lệnh truyền của Đấng Cứu Thế: Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy.
Ngày 18-02-1806, chiếc thuyền Anh quốc đưa cha Jose Fernandez cập bến Cửa Hàn, Đà Nẵng, thời vua Gia Long. Cha Fernadez tận dụng thời gian để học tiếng bản xứ và nhận tên Việt là Hiền.
Cha ưu tiên công việc truyền giáo cho lương dân và đạt nhiều hoa trái. Sau đó, cha Hiền được trao bài sai phục vụ giáo xứ Kiên Lao, góp phần tạo nên sự phồn thịnh cho xứ sở này. Cha còn được giao chức vụ Giám đốc Đại chủng viện và Bề Trên Tiểu chủng viện Ninh Cường.
Cuối năm 1837, cha Hiền bị quan quân triều đình truy bắt, bản thân lại mang bệnh nên ngài hết sức vất vả trên đường ẩn trốn và làm mục vụ. Quan khuyên cha bỏ đạo, đạp lên Thánh Giá thì sẽ được tha và làm quan thông ngôn, cha đáp: “Tôi đến đây không phải để phục vụ vua chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng Đạo Đức Chúa Trời thôi”. Thế rồi cha bày tỏ nguyện ước sẵn sàng chết vì Đạo với hai Đức cha đã bị giam trước đó.
Trưa ngày 24-7-1838, cha Hiền đọc lại lời tận hiến đời mình cho Chúa và cảm tạ hồng ân Chúa ban trong suốt 32 năm miệt mài truyền giáo trên miền đất Bắc Kỳ rồi chịu trảm quyết.
Linh mục Jose Fernandez - Hiền được tuyên phong chân phước ngày 27-5-1900 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
Ơn gọi tu trì nảy mầm trong tâm hồn nhờ gương sáng đạo đức của gia đình. Khi lớn khôn, được cha mẹ khuyến khích, chú Fernandez đã xin nhập dòng Đa Minh.
Thầy Fernandez khấn lần đầu trong dòng Đa Minh ở tuổi 27 tại Tu viện Thánh Phaolô và tiếp tục học thần học tại học viện của dòng. Sau khi thụ phong linh mục, cha Fernandez tình nguyện gia nhập Tỉnh hạt Rất Thánh Mân Côi ở Philippines và đáp tàu đến Manila để thực hiện lệnh truyền của Đấng Cứu Thế: Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy.
Ngày 18-02-1806, chiếc thuyền Anh quốc đưa cha Jose Fernandez cập bến Cửa Hàn, Đà Nẵng, thời vua Gia Long. Cha Fernadez tận dụng thời gian để học tiếng bản xứ và nhận tên Việt là Hiền.
Cha ưu tiên công việc truyền giáo cho lương dân và đạt nhiều hoa trái. Sau đó, cha Hiền được trao bài sai phục vụ giáo xứ Kiên Lao, góp phần tạo nên sự phồn thịnh cho xứ sở này. Cha còn được giao chức vụ Giám đốc Đại chủng viện và Bề Trên Tiểu chủng viện Ninh Cường.
Cuối năm 1837, cha Hiền bị quan quân triều đình truy bắt, bản thân lại mang bệnh nên ngài hết sức vất vả trên đường ẩn trốn và làm mục vụ. Quan khuyên cha bỏ đạo, đạp lên Thánh Giá thì sẽ được tha và làm quan thông ngôn, cha đáp: “Tôi đến đây không phải để phục vụ vua chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng Đạo Đức Chúa Trời thôi”. Thế rồi cha bày tỏ nguyện ước sẵn sàng chết vì Đạo với hai Đức cha đã bị giam trước đó.
Trưa ngày 24-7-1838, cha Hiền đọc lại lời tận hiến đời mình cho Chúa và cảm tạ hồng ân Chúa ban trong suốt 32 năm miệt mài truyền giáo trên miền đất Bắc Kỳ rồi chịu trảm quyết.
Linh mục Jose Fernandez - Hiền được tuyên phong chân phước ngày 27-5-1900 và được tôn phong hiển thánh ngày 19-6-1988.
Trích sách "Hạnh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam"
Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
II. Cầu nguyện
Mục Đích và niềm vui cuộc đời
Biên soạn: Hội đồng Giám mục Việt Nam
II. Cầu nguyện
Mục Đích và niềm vui cuộc đời
Câu đầu tiên trong Sách Giáo lý bản hỏi đã dạy và đòi ta phải trả lời một cách xác quyết và rõ ràng là: Hỏi ta sống ở đời này để làm gì? Quả vậy, việc xác định mục đích của cuộc đời là quan trọng, là điều kiện tiên quyết. Một khi đã xác định mục đích, chúng ta cũng phải chú tâm và trả lời cho được câu hỏi thứ hai đó là: Phải đạt mục đích ấy bằng cách nào?
Thánh Giu-se Fer-nan-de Hiền trả lời rõ ràng hai câu hỏi trên bằng cả cuộc đời của ngài, và điều đó đáng nhắc lại làm gương mẫu cho chúng ta:“Tôi sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho người dân Việt biết đạo Thiên Chúa là đạo thật. Đó là mục đích và niềm vui của tôi”. Xác định rõ mục đích và niềm vui của cuộc đời, cha Hiền đã quan tâm thực hành điều ấy.
Giu-se Fer-nan-de Hiền sinh ngày 03/12/1775, tại Ventosa de la Cuesta, tỉnh Valladolid, giáo phận A-vi-la, Tây Ban Nha. Nhưng để thực hiện mục đích và hoài bão đã xác định sẵn là truyền bá Tin Mừng cho miền Viễn Đông, cha Fer-nan-de Hiền đã xin chuyển qua Tỉnh DòngRất Thánh Mân Côi, Ma-ni-la, Phi-lip-pin. Tại đây, cha Hiền cùng với ba cha khác Dòng Đa Minh, theo một tàu buôn của Anh vào bến Cửa Hàn (Đà Nẵng), ngày 18/02/1806.
Sau mấy tháng học tiếng, vị tông đồ trẻ đã bắt tay vào công việc truyền giáo một cách hăng say. Vốn tính hiền lành, khiêm tốn và nhã nhặn, cha Hiền được mọi người quí mến, nhờ đó cha đã giúp nhiều lương dân đón nhận đức tin. Với mục đích và niềm vui ấy, cha Fer-nan-de Hiền đã phục vụ truyền giáo trên cánh đồng Việt Nam với số năm bằng với số năm Chúa Giê-su sống trên gian trần; cha phục vụ quên mình như Chúa Giê-su phục vụ; cha đã mang án tử như Chúa Giê-su đã mang án tử.
Năm 1938, trong cơn truy lùng gắt gao của tổng đốc Trịnh Quang Khanh, cha Fer-nan-de Hiền đã bị bắt. Khi bị bắt, các quan tra hỏi về các thừa sai, cha Fer-nan-de Hiền liền nhận là có quen thân với đức cha De-ga-do Y và Hê-na-rê Minh. Cha xin quan cho gặp các ngài vì biết hai vị cũng đang bị giam cầm cùng một chỗ với cha. Các ngài gặp nhau trong cảnh mỗi vị một cũi. Bỗng đức cha De-ga-do Y hỏi Cha Hiền: "Này cha Bề trên Phụ tỉnh, cha đã sẵn lòng tự nguyện để người ta chém đầu chưa?" Không chút chần chừ, cha Hiền trả lời: "Dĩ nhiên đã sẵn sàng".
Giá trị dâng hiến của cha Hiền thể hiện ở thái độ sẵn sàng, bình tĩnh, vui tươi dù cái chết cận kề. Giá trị ấy còn thể hiện ở thái độ quả quyết. Trước mặt các quan lại cha Hiền nói: "Xin các ngài biết cho, không bao giờ tôi chà đạp Thánh Giá. Còn việc về nước (Tây Ban Nha) thì tôi không muốn, vì tôi đến đây với ước nguyện là giảng đạo Chúa Ki-tô". Quan tiếp tục dụ dỗ sẽ đặt cha làm thông dịch viên nếu cha chịu bỏ đạo, cha đáp: "Tôi đến đây không để phục vụ vua chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng đạo Đức Chúa Trời thôi".
Với thái độ cương quyết khó thuyết phục của cha, vì thế, sáng ngày 24/07/1938 quan quân quyết định đem cha đi xử. Trước khi đem đi xử, các quan lại khuyên dụ cha Hiền lần cuối: "Lát nữa ông sẽ bị chém đầu nếu không đạp lên Thập Giá. Hãy quyết định lại đi, ông sẽ được tha về Âu châu". Vị chứng nhân cương quyết trả lời: "Tôi không bao giờ đạp lên Thánh Giá, các ông muốn chém thì cứ chém".
Tại pháp trường, quân lính kéo ngài ra khỏi cũi và xô ngài lên chiếu, ngài hầu như không gượng dậy nổi. Thấy vậy, lý hình vung gươm chém. Đầu vị tử đạo phải bêu ba ngày trước khi bị ném xuống sông.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con thánh tử đạo Giu-se Hiền, một mẫu gương giúp chúng con ý thức về cùng đích cuộc đời mình, một mẫu gương sống cho Chúa với trọn vẹn niềm vui. Xin cho con biết xác định mục đích cuộc đời là làm vinh danh Chúa. Xin cho con biết chọn cách thức thực hành nục đích đó là “niềm vui”. Xin cho chúng con cương quyết đạt mục đích đã chọn cho dẫu phải hy sinh, bắt bớ, tù đày, hiểm nguy.
Và lạy Chúa, nếu có lúc nào đó trong đời, chúng con cảm thấy mất định hướng và lơ là với mục đích cuộc đời, thì xin Chúa cho chúng con tìm lại được trong an bình tươi vui. Amen
Thánh Giu-se Fer-nan-de Hiền trả lời rõ ràng hai câu hỏi trên bằng cả cuộc đời của ngài, và điều đó đáng nhắc lại làm gương mẫu cho chúng ta:“Tôi sẵn sàng lấy máu mình để làm chứng cho người dân Việt biết đạo Thiên Chúa là đạo thật. Đó là mục đích và niềm vui của tôi”. Xác định rõ mục đích và niềm vui của cuộc đời, cha Hiền đã quan tâm thực hành điều ấy.
Giu-se Fer-nan-de Hiền sinh ngày 03/12/1775, tại Ventosa de la Cuesta, tỉnh Valladolid, giáo phận A-vi-la, Tây Ban Nha. Nhưng để thực hiện mục đích và hoài bão đã xác định sẵn là truyền bá Tin Mừng cho miền Viễn Đông, cha Fer-nan-de Hiền đã xin chuyển qua Tỉnh DòngRất Thánh Mân Côi, Ma-ni-la, Phi-lip-pin. Tại đây, cha Hiền cùng với ba cha khác Dòng Đa Minh, theo một tàu buôn của Anh vào bến Cửa Hàn (Đà Nẵng), ngày 18/02/1806.
Sau mấy tháng học tiếng, vị tông đồ trẻ đã bắt tay vào công việc truyền giáo một cách hăng say. Vốn tính hiền lành, khiêm tốn và nhã nhặn, cha Hiền được mọi người quí mến, nhờ đó cha đã giúp nhiều lương dân đón nhận đức tin. Với mục đích và niềm vui ấy, cha Fer-nan-de Hiền đã phục vụ truyền giáo trên cánh đồng Việt Nam với số năm bằng với số năm Chúa Giê-su sống trên gian trần; cha phục vụ quên mình như Chúa Giê-su phục vụ; cha đã mang án tử như Chúa Giê-su đã mang án tử.
Năm 1938, trong cơn truy lùng gắt gao của tổng đốc Trịnh Quang Khanh, cha Fer-nan-de Hiền đã bị bắt. Khi bị bắt, các quan tra hỏi về các thừa sai, cha Fer-nan-de Hiền liền nhận là có quen thân với đức cha De-ga-do Y và Hê-na-rê Minh. Cha xin quan cho gặp các ngài vì biết hai vị cũng đang bị giam cầm cùng một chỗ với cha. Các ngài gặp nhau trong cảnh mỗi vị một cũi. Bỗng đức cha De-ga-do Y hỏi Cha Hiền: "Này cha Bề trên Phụ tỉnh, cha đã sẵn lòng tự nguyện để người ta chém đầu chưa?" Không chút chần chừ, cha Hiền trả lời: "Dĩ nhiên đã sẵn sàng".
Giá trị dâng hiến của cha Hiền thể hiện ở thái độ sẵn sàng, bình tĩnh, vui tươi dù cái chết cận kề. Giá trị ấy còn thể hiện ở thái độ quả quyết. Trước mặt các quan lại cha Hiền nói: "Xin các ngài biết cho, không bao giờ tôi chà đạp Thánh Giá. Còn việc về nước (Tây Ban Nha) thì tôi không muốn, vì tôi đến đây với ước nguyện là giảng đạo Chúa Ki-tô". Quan tiếp tục dụ dỗ sẽ đặt cha làm thông dịch viên nếu cha chịu bỏ đạo, cha đáp: "Tôi đến đây không để phục vụ vua chúa trần gian này mà chỉ để rao giảng đạo Đức Chúa Trời thôi".
Với thái độ cương quyết khó thuyết phục của cha, vì thế, sáng ngày 24/07/1938 quan quân quyết định đem cha đi xử. Trước khi đem đi xử, các quan lại khuyên dụ cha Hiền lần cuối: "Lát nữa ông sẽ bị chém đầu nếu không đạp lên Thập Giá. Hãy quyết định lại đi, ông sẽ được tha về Âu châu". Vị chứng nhân cương quyết trả lời: "Tôi không bao giờ đạp lên Thánh Giá, các ông muốn chém thì cứ chém".
Tại pháp trường, quân lính kéo ngài ra khỏi cũi và xô ngài lên chiếu, ngài hầu như không gượng dậy nổi. Thấy vậy, lý hình vung gươm chém. Đầu vị tử đạo phải bêu ba ngày trước khi bị ném xuống sông.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con thánh tử đạo Giu-se Hiền, một mẫu gương giúp chúng con ý thức về cùng đích cuộc đời mình, một mẫu gương sống cho Chúa với trọn vẹn niềm vui. Xin cho con biết xác định mục đích cuộc đời là làm vinh danh Chúa. Xin cho con biết chọn cách thức thực hành nục đích đó là “niềm vui”. Xin cho chúng con cương quyết đạt mục đích đã chọn cho dẫu phải hy sinh, bắt bớ, tù đày, hiểm nguy.
Và lạy Chúa, nếu có lúc nào đó trong đời, chúng con cảm thấy mất định hướng và lơ là với mục đích cuộc đời, thì xin Chúa cho chúng con tìm lại được trong an bình tươi vui. Amen