22/01/2024 -

Các Thánh Dòng

1011
Ngày 22/01 Thánh Mattheu Đậu và Thánh Phanxico Tế

Ngày 22/01

Thánh Matthêu Ðậu

S. Matthaeus Alonso Leciniana

(1702-1745)

Thánh Phanxicô Tế

S. Franciscus Gil de Federich

(1702-1745)

Cặp đôi “hoàn cảnh”[1]

 

Trong danh sách Các Thánh Dòng Đa Minh, tên của thánh Matthaeus Alonso Leciniana và thánh Franciscus Gil de Federich được xếp vào một mục[2]. Trong danh sách Các Thánh Tử Đạo tại Việt Nam[3] hai vị thánh này được mừng kính trong ngày 22 tháng 01 hàng năm. Đây là hai vị thánh tử đạo đầu tiên, đứng đầu danh sách 117 Thánh Tử Ðạo Việt Nam. Cha Matthaeus Alonso Leciniana có tên Việt Nam là Matthêu Đậu; Cha Franciscus Gil de Federich có tên Việt Nam là Phanxico Tế.

Nếu dùng từ ngữ theo kiểu của “tuổi tin” ngày nay, thì chúng ta có thể gọi hai vị thánh này là “cặp đôi hoàn cảnh”; vì dường như hai vị thánh này có nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh sống và hoàn cảnh sứ vụ trong đời dâng hiến. Cùng sinh năm 1702, cùng vào Dòng Đa Minh lúc 15 tuổi, cùng quốc tịch Tây Ban Nha, cùng làm linh mục Dòng Giảng Thuyết lúc tuổi đôi mươi, cùng được sai đi truyền giáo tại Việt Nam, cùng được hưởng phúc tử đạo trong ngày 22/01/1745, cùng được phong chân phước ngày 15/04/1906 do Đức Thánh Cha Piô X và cùng được Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II nâng lên hàng hiển thánh ngày 19/6/1988, cùng được mừng kính vào ngày 22/01 hàng năm.

Năm 1729, tỉnh dòng Đa Minh tại Philippines tuyển mộ các vị thừa sai để đi truyền giáo tại Việt Nam và Trung Hoa. Cha Matthaeus Alonso Leciniana xin ghi tên, nhưng sau lại rút lui. Một cơn bệnh ập đến làm cho ngài phải suy nghĩ nhiều đến việc đã từ chối đi truyền giáo. Dịp may lại đến để cha có thể chuộc lại lỗi xưa, ngày 04/7/1729 cha được nhập đoàn với hai thầy khác và 27 vị thừa sai đi Philippines. Ngày 18/01/1732 cha tới miền Bắc Việt.

Khác với Cha Matthaeus Leciniana, hai năm trước khi làm linh mục tức năm 1725, Cha Franciscus Federich đã ghi tên xin đi Philippines để đi truyền giáo, nhưng bề trên không chấp nhận. Năm 1729, Cha Franciscus Federich lại xin một lần nữa, cuối cùng ý nguyện của cha được bề trên chấp thuận. Cha cùng với 24 người khác tới Manilla tháng 11/1730. Cha được bề trên Manilla gửi tới miền Bắc Việt, ngày 28/8/1735.

Sự khác biệt đôi chút trong bước đầu hành trình truyền giáo của hai vị thánh này cho chúng ta thật nhiều suy nghĩ. Có những môi trường chúng ta khát khao được đến để được thực hiện những lý tưởng; chúng ta sốt mến chờ đợi, khi dịp thuận tiện đến chúng ta ngập tràn niềm vui như tâm trạng của Cha Franciscus Federich. Có những môi trường mà trong một lúc nào đó chúng ta cảm thấy ngại ngần, lo sợ và muốn tránh né, không dám dấn thân tiến bước; nhưng rồi Thiên Chúa lại muốn dẫn ta đi, Ngài đưa ta đến đó và làm cho tâm hồn chúng ta ngập tràn bình an vui sướng như khởi đầu hành trình truyền giáo của Cha Matthaeus Leciniana. Trong cuộc sống, nhiều lúc ý ta trùng ý Chúa, con đường ta chọn trùng khớp với con đường Chúa muốn ta đi, ta ngập tràn hân hoan vui sướng. Nhưng cũng trong cuộc sống ấy, nhiều lúc ý của ta chưa phải là ý Chúa, con đường Chúa muốn ta đi chẳng giống con đường ta mơ tưởng, lòng ta buồn rầu ảo não héo hon. Làm sao để tìm thấy niềm vui, làm sao để có thể tin là Chúa luôn đồng hành, làm sao để biết đó là ý Chúa.???

Mẫu gương của thánh Matthaeus Leciniana và thánh Franciscus Federich trong sự vâng phục ý Chúa, giống hệt cuộc đời Chúa Giêsu. Những ngày tháng dịch bệnh hoành hành dân Việt hai cha không quản ngại khó khăn, lây nhiễm, đến giúp đỡ người bệnh. Những người bê tha tội lỗi tật bệnh thiêng liêng, hai cha tìm cách đưa về với Chúa. Những ngày bị bắt, cha bị dắt đi trong thành phố như những tên tội phạm cho dân chúng chế diễu. Trong cuộc lùng bắt hành hình, cha Federich cũng hỏi lại quân lính câu hỏi của Chúa Giêsu: "Các ông tìm ai ? Chính tôi đây là người các ông muốn."  Trong lần gặp gỡ cuối cùng với giáo dân cha khuyên nhủ: "Anh chị em quí mến, cũng như Chúa Kitô trong bữa tiệc ly, tôi muốn khuyên anh chị em theo lời của Chúa, anh chị em hãy yêu thương nhau như ruột thịt, hãy vững mạnh trong đức tin..." Trong ngày xử án, hai tên lính cầm gươm đồng loạt chém đầu hai vị, các ngài cũng được diễm phúc chết vào ngày thứ Sáu như Chúa.

Lạy Chúa, trong cuộc sống hằng ngày, việc nhìn ra ý Chúa đã là khó, nhưng việc thực thi ý Chúa lại càng khó hơn. Xin Chúa ban sức mạnh cho con, để con vui sướng đi theo Chúa, để con vui sướng nói về thánh ý Chúa tỏ rạng trong cuộc đời con cho mọi người. Amen

 

[1] Từ ngữ “cặp đôi hoàn cảnh” nhại lại từ ngữ của chương trình “cặp đôi hoàn hảo” trên đài truyền hình. Cặp đôi hoàn hảo có những nét tương đồng gắn kết với nhau cách hoàn hảo, đi qua từng chặng của cuộc thi cho đến khi vào chung kết. “Cặp đôi hoàn cảnh” là từ “tuổi tin” (tuổi từ 13 đến 19 = xteen của tiếng Anh) gắn cho những cặp đôi không có cùng chọn lựa nhưng chỉ vì hoàn cảnh mà trở thành cặp đôi, không phải trong các cuộc thi mà là trong bối cảnh nào đó của cuộc sống... Từ ngữ này mang tính “hài hước”. Trong bài này, từ ngữ “cặp đôi hoàn cảnh” được sử dụng vừa có tính hài, vừa có dụng ý nói về hai người cùng hoàn cảnh.

[2] Dựa theo Catalogus hagiographicus Ordinis Praedicatorum (Santa Sabina, Roma 2001)

[3] Tiểu sử của hai vị thánh này xin xem “Hạnh tích các Thánh Tử Đạo Việt Nam” của Linh mục Gioakim Nguyễn Đức Việt Châu, SSS, 2005, Louisiana, trang 42-53. Hoặc xem tại link:

 http://tinmung.net/CACTHANH/118ThanhTDVN/INDEX.htm.

 

114.864864865135.135135135250