Giáo Huấn Xã Hội

của các Ngôn Sứ Thế kỷ VIII

“Từ giữa anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em sẽ cho xuất hiện một  ngôn sứ như tôi để giúp anh em, anh em hãy nghe vị ấy” (Dnl 18,15), căn cứ vào lời hứa và mạc khải trên thì  các ngôn sứ trước hết là những người của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển chọn họ từ giữa muôn dân và cũng đồng thời sai họ đến với muôn dân. Danh từ Ngôn sứ có nguồn gốc từ một danh từ La ngữ Protepha, một phiên âm thuần túy bởi từ Hy ngữ  Prophainein, có nghĩa: “chỉ từ xa, chỉ ra trước”. Sách thánh cũng cho ta biết thêm những quan niệm rõ ràng về các ngôn sứ - các ngài là những người được Thiên Chúa cử đến, do Thánh Linh thúc đẩy và với uy thế của Thiên Chúa, các ngôn sứ nói về Thiên Chúa và về lòng thương xót của Người, nhằm kêu gọi dân quay đầu trở lại với Người, từ bỏ những tội nghịch của họ chống lại Thiên Chúa và chống lại đồng loại.

Được khởi đi từ thời ông Môsê - vị ngôn sứ vĩ đại, nhưng phong trào ngôn sứ chỉ thực sự bắt đầu từ khoảng năm 1050 trước công nguyên, với chế độ quân chủ, và mạnh nhất là vào những năm của thế kỷ thứ VIII. Trong số tất cả các ngôn sứ thời này, ta thấy đặc biệt nổi lên có ngôn sứ Amôt và Hôsê ở các vương quốc phía Bắc; ngôn sứ Isaia và Mikha ở các vương quốc phía Nam. Các vị ngôn sứ này đã có những giáo huấn rất sâu sắc về tình trạng xã hội lúc bấy giờ. Với lời lẽ mộc mạc, chân thành… các ngài đã không ngần ngại lên án, tố cáo những bất công trong cuộc sống. Mỗi vị một tính cách, một hình thức, một địa điểm… nhưng tất cả đếu có chung một nhận định và lời kêu gọi qua sự hướng dẫn của Thiên Chúa.

Ngôn sứ Amôt

Hoạt động dưới thời vua Giaropam II (783-743 ) của nước Israel, một thời kỳ rất thịnh đạt về mặt vật chất. Miền bắc mở rộng biên cương nên giàu có. Thế nhưng, những tài sản kếch xù đó chỉ nằm trong tay bọn trọc phú: các quan chức nhà vua, các tướng lãnh quân đội, các chủ nhân tai to mặt lớn, các thương gia và những người cho vay lấy lãi. Bên cạnh họ là đám thứ dân khốn khổ, bị khai thác không nương tay nể mặt.

Trước những cảnh tượng đau lòng đó, ngôn sứ Amôt đã dùng những lời nói, những hình ảnh hết sức thực tế, mãnh liệt, ông thẳng thắn lên án “những kẻ giàu có mà lòng chai dạ đá, chính họ đã dùng uy lực và sức mạnh của đồng tiền biến đám dân nghèo thành một lũ nô lệ” (8,4-6).

Với các quan tòa, ông chỉ trích họ đã “bán người công chính để lấy tiền, bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi giày” (2,6). Ông tố cáo những kẻ làm nghề cầm đồ, những kẻ cho vay lấy lời không biết xót thương, ông khiển trách các con buôn đã chà đạp kẻ nghèo, những con người hèn mọn trong xứ qua những việc đầu tư vô liêm sỉ và những gian dối trong cân đo. Nhưng điều làm ông bực bội nhất chính là lối sống xa hoa ngạo nghễ của giới quý tộc, trong khi nông dân và thợ thủ công thì chết vì nghèo khổ (2,7;4,1).

Bằng cách nhắc lại nhiều lần, ngôn sứ Amot muốn nhấn mạnh hơn nữa những giáo huấn của mình với dân chúng. Có lẽ trong tất cả các ngôn sứ không ai chỉ trích  và chống đối những bất công xã hội cho bằng ngôn sứ Amôt. Thậm chí có người còn gọi ông là ngôn sứ xã hội chủ nghĩa. Từ đời sống của một người dân quê làm nghề chăn dê và châm sung, chắc chắn Amôt đã lấy cuộc sống xa hoa nơi thị thành làm “gương mù”, nhưng điều làm ông trở nên cứng cỏi, nghiêm khắc chính là chỗ nếp sống văn minh ấy che đậy một sự ung thối xã hội lớn lao (6,8-11).

Ngôn sứ Hôsê

Nối tiếp bước chân rao giảng của ngôn sứ  Amôt, ngôn sứ Hôsê thi hành sứ vụ của mình vào khoảng cuối thời của vua Giaropam II và các vua kế vị.

Giáo huấn của ông ngoài việc tố cáo những bất công trong xã hội( 4,1;3;11 ), ông đặc biệt nhấn mạnh về lòng trung tín, đến tinh thần và lối sống đạo đức. Với giọng điệu có phần nhẹ nhàng và tình cảm, Hôsê nhắc nhở cho dân biết họ sẽ bị xét xử vì những tội ác họ đã làm “Giờ đây hành động của chúng trói chặt tay chúng, tất cả rành rành trước mặt Ta. Để mua vui cho Vua, chúng làm điều gian ác; để vừa lòng thủ lãnh, chúng bày chuyện dối gian”( 2,4;7,1 8,4 ). Và hơn thế nữa, chính con cháu của họ cũng bị xét xử và phạt tội vì chính những tội ác họ đã gây ra( 2,6 ).

Điểm đặc biệt nơi ngôn sứ Hôsê là ông đã dùng chính cuộc đời mình để làm bài học sống động cho dân về lòng chung thủy của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho dân của Người.

Ngôn sứ Isaia

Khác với hai ngôn sứ trên, ngôn sứ Isaia và Mikha thực thi sứ vụ của mình tại miền Nam, tức là ở nước Giuđa. Vùng đất này về tình hình chính trị tương đối ổn định hơn tại nước Irael, nhưng không vì thế  mà bình yên hơn. Trong đất nước Giuđa cũng đầy dẫy những bất công xã hội, những lọc lừa đối trá…

Isaia là vị ngôn sứ có xuất thân từ  một gia đình quý phái, Thiên Chúa đã ban cho ông có những năng khiếu tự nhiên đặc biệt, trí khôn ông sắc xảo và rõ ràng, ông thành thạo các vấn đề khó khăn nhất của thời đại. Nhờ có một ý chí mãnh liệt, quả cảm, ông khẳng khái lên án những tệ trạng của người đương thời mà không chút sợ sệt “Khốn thay dân tộc phạm tội, dân chồng chất lỗi lầm, giống nòi gian ác, lũ con hư hỏng” (1,4) qua lời hạch tội của ngôn sứ thì đây quả là một dân hết đường cứu chữa, một dân tộc cứng cổ cứng đầu (9,7-20).

Kế đến, ngôn sứ lên án lối sống giả hình giả bộ, chỉ ngoài môi miệng, một lối sống hình thức muốn qua mặt “Ta không chịu nổi những người cứ phạm tội rồi cứ lễ lạt linh đình” (1,14). Ngôn sứ đau lòng khi nhắc đến thành đô Giêrusalem, một nơi chốn chỉ dành riêng cho sự thánh thiện vậy mà giờ đây nó cũng chẳng khác chi các miền đất khác, cũng đầy dẫy những tội ác và giết chóc: “Đô thị xưa kia vốn chính trực, vốn là nơi ngự trị của đức công minh, sao nay lại đầy lũ giết người” (1,21)

Và không chỉ có dân chúng mà thôi, các thủ lãnh, những nhà cầm quyền cũng ra hư  đốn: “Tất cả bọn chúng đều thích ăn hối lộ, và chạy theo quà cáp. Chúng không phân xử công minh cho cô nhi, cũng chẳng quan tâm đến quyền lợi quả phụ”. (2,23;10,1-2).

Thiên Chúa, Đấng thẩm phán chí công sẽ đứng ra xét xử mọi tội trạng của tòan dân: “Đức Chúa đưa ra tòa xét xử hàng kì mục và những kẻ lãnh đạo dân Người: chính các ngươi đã ăn hại vườn nho, của cải người nghèo các ngươi đã bóc lột” (3,14 ).

Toàn bộ chương 5 ngôn sứ vạch rõ hết mọi thói hư tật xấu, tội trạng của dân Giuđa lúc bấy giờ cách nặng nề và thê lương: tham lam, bóc lột, rượu chè, hối lộ, điêu ngoa … tất cả đã làm mờ đi tâm trí con người, họ không còn nhận ra được đâu là đường lối ngay chính để đi theo, không còn nhận ra tội của mình để ăn năn.

Ngôn sứ Mikha

Thực thi sứ vụ cùng thời điểm với ngôn sứ  Isaia trên lãnh thổ Giuđa, ngôn sứ Mikha cũng gay gắt không kém phần ngôn sứ Amôt khi lên tiếng kêu gọi và nhắc nhở dân chúng.

Đối tượng trước tiên trong sứ điệp chống đối của ông là những kẻ trục lợi: “Khốn thay những kẻ nằm trên giường mà toan tính chuyện xấu xa, lập mưu làm điều ác … vì nắm sẵn quyền bính trong tay, muốn cánh đồng nào là chúng cướp lấy” ( 2,1-2 ); những kẻ mang danh là thủ lãnh, chính họ đã ra tay làm nhưng việc thật quá vô luân: ghét điều lành, ưa điều ác, bóc lột sức lao động người nghèo…

Tiếp đến là các ngôn sứ hám lợi, họ đã quên đi trách nhiệm và vai trò của mình để đi tìm lợi ích riêng một cách trắng trợn: “Khi răng chúng cắn được cái gì thì chúng hô “Bình an”, còn khi không có ai bỏ gì vào miệng chúng, thì chúng lại mở cuộc thánh chiến tấn công họ” (3,5). Điều làm ông đau lòng nhất là những sự lừa đảo, gian lận trong việc buôn bán “Những của cải chiếm đoạt bằng dối gian, ê pha thiếu hụt, xấu xa ghê tởm? Những bàn cân gian trá, những túi đựng các các bàn cân giả (6,10-12); những tệ nạn xã hội: tước đọat đồng ruộng đem chia cho quân phản nghịch (2,1-5 ;8-10;3,1-12…)

Bất công hiện diện khắp mọi nơi trong xứ, trong mọi thành phần của cuộc sống dân chúng, đất nước Giuđa đầy những loạn lạc, khiến ngôn sứ phải thốt lên cách thất vọng và đau thương “Kẻ hiếu trung đã biệt dạng khỏi xứ, không còn người lương thiện chốn dương gian … luân thường đạo lý bị nghiêng ngửa”(7,1-6).

Giáo huấn các ngôn sứ trong cuộc sống xã hội hôm nay

Trải qua hơn hai mươi thế kỷ, với biết bao là những biến động và đổi thay nhưng giáo huấn của các ngôn sứ vẫn luôn mới mẻ. Với thực trạng xã hội trong thế giới hôm nay, có thể nói giáo huấn của các ngôn sứ xưa vẫn còn như đang được nói cho chính mọi dân tộc trong thời đại hôm nay. Về chính quyền và các người giàu có vẫn tham ô hối lộ, vẫn chiếm đoạt của cải và chèn ép người nghèo. Khắp mọi nơi trên thế giới không đâu là không có cướp bóc, gian tham, lừa lọc, bất hiếu… Hơn thế nữa, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, con người ngày nay còn gạt bỏ ra khỏi đầu mình ý niệm về Thiên Chúa để tự cho phép mình lao theo những tội ác và hành vi phi đạo đức: hôn nhân đồng tính, phá thai, li dị, an tử trong y học…

Công bình xã hội luôn là vấn đề nóng trong cuộc sống, tiếp bước các ngôn sứ khi xưa, ngày nay với vai trò và trách nhiệm của mình, Giáo Hội vẫn không ngừng đưa ra những lời kêu gọi, nhắc nhở và thậm chí còn có những hình phạt cho những hành vi trái lề luật Chúa và lương tâm con người.

Thiên Chúa vẫn luôn là Thiên Chúa của lòng xót thương, vẫn luôn là Thiên Chúa của hết mọi dân tộc, tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói qua miệng các ngôn sứ đều xuất phát từ tình yêu không bờ bến của Người. Dù cho lời của các ngôn sứ có mạnh mẽ, nặng nề như thế nào đi nữa thì cốt cũng là để kêu gọi  dân Chúa quay trở lại với Người, đón nhận tình yêu thương của Người. Những đau khổ, những mất mát … mà dân phải chịu chỉ là những thử thách để dân thấy được rằng chỉ có Thiên Chúa là Thiên Chúa duy nhất, Thiên Chúa của công bình và trung tín “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua mọi tội ác phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài” (Mk7,18a).
 

HV