Dẫn nhập


Sách Ét-te trình bày ba hình ảnh người phụ nữ: Vát-ti, hoàng hậu đầu tiên của vua A-suê-rô[1]; Ét-te, người vợ thứ hai của vua; và Xê-rết, vợ của Ha-man, tể tướng của vua. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nói đến hai nhân vật quan trọng hơn: Vát-ti và Ét-te.


Cả hai người phụ nữ đều sống trong hoàng cung và có cùng một số phận, cùng một mục tiêu: từ thân phận người phụ nữ–bị vật hóa trở thành (hoặc mong muốn trở thành, như Vát-ti) người phụ nữ-chủ thể. Nhưng con đường của họ không kết thúc giống nhau. Vát-ti bị nhà vua ruồng bỏ và dần rơi vào quên lãng; còn Ét-tethì được nhìn nhận và tôn vinh, ngay cả khi căn tính thật của đã từng bị che giấu trong thời gian sống tại hoàng cung.


Hai hình ảnh người phụ nữ: từ phụ nữ- bị vật hóa trở thành phụ nữ–chủ thể


1. Hoàng hậu Vát-ti


Vát-ti là vợ của A-suê-rô, vua nước Ba Tư. Khi nhà vua tổ chức một đại yến tiệc kéo dài một trăm tám mươi ngày để phô bày sự giàu có và vẻ huy hoàng của vương quốc trước các quan chức, các tướng lĩnh của quân đội Ba-tư và Mê-đi, cùng toàn thể các tổng trấn (x. Et 1,3–4), ông cũng muốn phô bày hoàng hậu Vát-ti, vì bà quá xinh đẹp nên cho mời bà đội triều thiên hoàng hậu vào chầu vua (x. Et 1,11).


Bi kịch bắt đầu từ đây: nhà vua ra lệnh cho hoàng hậu xuất hiện trước mặt ông và các thực khách. Nhưng hoàng hậu Vát-ti đã từ chối không chịu đến theo lệnh vua”. Nhà vua “tức giận, cơn thịnh nộ bừng bừng bốc lên” nên cho mời “những nhân vật thường yếu kiến vua và chiếm địa vị cao nhất trong vương quốc” để thỉnh ý : “theo luật phải xử thế nào với hoàng hậu Vát-ti ?”.


Không do dự, vua đã phế truất bà ngay khi bà khước từ việc thi hành mệnh lệnh xuất hiện trong buổi tiệc, chỉ nhằm một mục đích duy nhất là “phô bày vẻ đẹp của vợ mình” như “muốn phơi bày cho họ thấy cảnh giàu sang tráng lệ của vương quốc cũng như uy thế rực rỡ của nhà vua” (Et 1,4) (theo các rabbi Do Thái, hoàng hậu Vát-ti bị yêu cầu xuất hiện trong tình trạng khỏa thân trước khách dự tiệc)[2].


Nhà vua đã đối xử với vợ mình như một món đồ: ông thích phô bày bà trước mặt các khách dự tiệc. Nhưng theo phong tục Ba Tư, các người vợ phải rời bữa tiệc trước khi các thực khách say sưa, và lúc đó các kỹ nữ sẽ được đưa vào hầu vua và thượng khách[3]. Như vậy, vua A-suê-rô đã đối xử với hoàng hậu Vát-ti như một kỹ nữ; ông không hề tôn trọng bà, mà chỉ muốn phô trương sự giàu có của mình, và người vợ của ông trở thành một thứ tài sản vật chất trong số những tài sản ông có.


Về phần Vát-ti, bà giữ vững phẩm giá của mình ngay cả khi vẫn là hoàng hậu của vua, và chính phẩm giá ấy lại dẫn đến sự sụp đổ của bà. “Vát-thi, hoàng hậu”, nghĩa là một vị nữ hoàng thực thụ. Vát-ti khẳng định phẩm giá của mình khi từ chối xuất hiện trước mặt nhà vua và các quan chức lúc họ đang trong cơn say. Bà là một người phụ nữ-hành động phù hợp với phẩm giá và địa vị mình, nhưng nhanh chóng bị gạt ra khỏi sân khấu lịch sử, và tên tuổi bà dần bị xóa nhòa về sau.


Vát-ti, khi từ chối trở thành một đối tượng thuần túy cho dục vọng, là một hình ảnh người phụ nữ can đảm; bà muốn giữ gìn phẩm giá của mình, ngay cả khi điều đó phải trả giá bằng mạng sống.


Những nhận xét của người kể chuyện cho biết: “Đến ngày thứ bảy, khi lòng nhà vua vui lên vì rượu… vua ra lệnh đưa hoàng hậu Vát-thi đến trước mặt mình… để phô bày vẻ đẹp của bà, vì bà rất xinh đẹp” (Et 1,10-11). Khi nhà vua đang say rượu và hoàng hậu Vát-ti bị truyền lệnh trở thành một “màn trình diễn” trước dân chúng và các hoàng thân, sắc đẹp của bà trở thành điểm xung đột giữa mệnh lệnh hoàng gia (truyền lệnh cho hoàng hậu đến) và quyền lợi, nhân phẩm của người phụ nữ, ít nhất là theo cách hiểu của chính Vát-ti (theo phong tục, các người vợ không bước vào phòng yến tiệc khi các thực khách đã say)[4].


Ngay cả khi từ chối xuất hiện trước mặt nhà vua, bà không từ chối chức phận “làm hoàng hậu”; bà chỉ từ chối việc bị đem ra phô bày, bị vật hóa. Chính điều bà khước từ ấy lại cho thấy nhà vua hành xử hoàn toàn thiếu phẩm giá.


Vát-ti khác với Ét-te, người không chọn con đường từ chối; điều đó biến cô, từ thân phận cung phi thành hoàng hậu. Tuy vậy, Vát-ti đã trở thành một người phụ nữ-chủ thể khi dám khước từ mệnh lệnh của vua.


Đối với vua A-suê-rô, vẻ đẹp của Vát-ti chỉ là một đối tượng để trưng bày, nhằm thỏa mãn thú vui phô trương sự giàu có của mình, như đã được nhấn mạnh trong chương 1, 4.


Vát-ti, từ thân phận người phụ nữ- bị vật hóa, đã muốn trở thành người phụ nữ-chủ thể, nhưng cuối cùng bà không đạt được điều đó, vì bà bị rơi vào quên lãng. Trước khi bị phế truất, Vát-ti luôn được gọi là “hoàng hậu Vát-ti”; nhưng khi bà đánh mất vị thế trước mặt nhà vua, bà chỉ còn được gọi đơn giản “Vát-ti” (Et 1,19). Tước hiệu “hoàng hậu Vát-ti” không còn xuất hiện nữa: bà chỉ còn là “Vát-ti”, không chức phận, nhưng có phẩm giá.


Khi nhà vua nhớ lại Vát-ti và “cách cư xử của bà…”, ông cũng không gọi bà là hoàng hậu, mà chỉ nói đến “Vát-ti” (Et 2,1). Vát-ti đã mất tất cả, và điều này gợi lên vấn đề của luật báo oán (luật “mắt đền mắt, răng đền răng”): vì bà muốn khẳng định phẩm giá của mình, nên tên tuổi bà bị xóa bỏ sau chương 2,1. Đó là “mắt đền mắt, răng đền răng”, ngoài mọi quy tắc luân lý: “từ chối” đáp lại bằng sự “từ chối”; Vát-thi đã không chịu xuất hiện trước mặt nhà vua, và từ đó về sau bà sẽ không bao giờ còn hiện diện nữa. Đây là một sự biếm họa cực đoan của luật báo thù!

 
*Những yếu tố mỉa mai trong trình thuật


Vát-ti đã không xuất hiện trước mặt nhà vua, và sự thất sủng của bà bị coi như một hình phạt:  “…vua cấm Vát-ti không được vào chầu trước mặt vua A-suê-rô nữa, và nhà vua sẽ ban “chức hoàng hậu cho một người khác xứng đáng hơn” (Et 1,19).


Thế nhưng, điều ấy thực ra lại chính là quyết định của bà: “Hoàng hậu Vát-ti đã từ chối không đến theo lệnh của vua…” (Et 1,12).


Một sự việc riêng tư trong gia đình-cụ thể là hành vi không vâng phục của hoàng hậu Vát-ti, đã nhanh chóng biến thành một bi kịch mang tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Việc từ chối của bà không chỉ bị coi là sai trái trước vua mà còn được hiểu là có ảnh hưởng đối với toàn bộ phụ nữ trong mọi “miền thuộc quyền đức vua”. Chỉ một người vợ không tuân phục chồng cũng đủ làm bùng nổ nguy cơ bất tuân rộng khắp đế quốc, như Et 1,15–17 nhận xét: “Quả thế, chuyện hoàng hậu sẽ lan ra đến toàn thể nữ giới, làm họ nhìn đức lang quân của họ với cặp mắt khinh bỉ.” Thật nực cười khi một việc tưởng chừng “chuyện vặt ” trong gia đình lại được thổi phồng thành mối đe dọa đối với trật tự nam quyền, và chính quyết định của Vát-ti đã dẫn đến việc vua truất phế bà.

 
2. Việc chọn Ét-te.


Sự sụp đổ của Vát-ti mở đường cho Ét-te bước vào sân khấu lịch sử. Nhưng hoàng hậu mới này là ai? Trước mắt, chúng ta chưa biết, vì chính tên gọi Ét-te có nghĩa là “Ẩn Giấu” hay “Bí Mật”. Cô không được tiết lộ gì về dân tộc và nguồn gốc của mình theo lệnh của Moóc-đo-khai-người bà con đồng thời là cha nuôi của cô, bởi cô mồ côi cả cha lẫn mẹ (Et 2,7), ở trong hoàn cảnh bơ vơ như một góa phụ, Ét-te hoàn toàn lệ thuộcMoóc-đo-khai.


Ét-te xuất hiện khi nhà vua ban một sắc lệnh truyền kiểm kê tất cả các thiếu nữ xinh đẹp và còn trinh trong toàn vương quốc, nhằm tìm người thay thế hoàng hậu Vát-ti. Nhờ “hết sức xinh đẹp, đôi má tươi hồng, vẻ mặt hớn hở, dễ thương” (5, 1b) nên Ét-te đã chiến thắng trong cuộc tuyển chọn. Tuy nhiên, Moóc-đo-khaiđã dặn cô phải giấu kín nguồn gốc Do-thái của mình, vì lo sợ vua Ba-tư sẽ không chấp nhận một phụ nữ Do-thái. Ét-te đã vâng lời. Chính Moóc-đo-khaiđã biến cô thành một đối tượng đáng khao khát trong tay nhà vua.


Trước chương 4, Ét-te hoàn toàn vô danh, phù hợp với con người của cô, nghĩa là vâng phục. Trong hoàng cung, cô thậm chí không biết điều gì đang xảy ra với Moóc-đo-khai và với dân tộc của ông: sắc lệnh của vua nhằm tiêu diệt toàn dân Ít-ra-en. Cô sống trong tình trạngkhông hay biết. Trái lại, Moóc-đo-khai biết rất rõ những gì đang diễn ra tại triều đình.


Ét-te đã gửi cho Moóc-đo-khai quần áo mới, vì ông đã xé áo mình và mặc áo vải gai và rắc tro (trang phục của tang chế) ; sau khi nhà vua ban sắc chỉ tiêu diệt toàn thể người Do-thái trong vương quốc Ba-tư. Moóc-đo-khai từ chối những bộ quần áo ấy; trái lại, Ét-te nhận được nơi ông bản sao sắc lệnh tử hình dành cho dân tộc mình, một biến cố mà cô hoàn toàn chưa được chuẩn bị để đối diện.


Moóc-đo-khai yêu cầu Ét-te can thiệp với nhà vua để cứu dân tộc Do-thái, nhưng ban đầu cô không đồng ý vì cô muốn bảo toàn mạng sống của chính mình. Moóc-đo-khai kiên quyết thúc giục : đừng nghĩ rằng việc sống ẩn danh trong cung điện sẽ cứu được bản thân : “Đừng tưởng rằng trong cả dân Do-thái, chỉ mình con ở trong hoàng cung là được thoát nạn. Vì đến lúc này con vẫn ngậm miệng làm thinh, thì người Do-thái sẽ nhận được sự trợ giúp từ nơi khác” (Et 4,13). Et-te không còn lựa chọn nào khác ngoài việc liều mạng sống mình.


Dù can thiệp hay không, thì cũng sẽ gặp một nguy hiểm chết người : nếu Ét-te không can thiệp, cô sẽ bị tiêu diệt cùng với dân tộc mình; còn nếu can thiệp thì chính mạng sống cô bị đe dọa, vì “bất cứ người nào, nam hay nữ, không được triệu vời mà dám vào chầu vua...thì đều chịu luật duy nhất là phải chết, trừ phi vua giơ phủ việt ra” (Et 4,11).


Moóc-đo-khai tiếp tục thúc giục cô bằng một câu hỏi: ai biết được? Chính câu hỏi ấy đã là câu trả lời. Ở một mức độ nào đó, Moóc-đo-khai nói ra lý do của sự im lặng của cô, để phá vỡ tình trạng ấy. Ét-te chấp nhận lời yêu cầu của Moóc-đo-khai cách trọn vẹn đó là sẽ vào chầu vua, dù không được triệu vời.


Nhưng từ đây, địa vị của Ét-te đã thay đổi. Đây là lần đầu tiên cô ra lệnh cho Moóc-đo-khai phải làm theo yêu cầu của mình: “Hãy đi tập hợp tất cả người Do-thái… hãy ăn chay cầu nguyện: đừng ăn, đừng uống gì cả trong ba ngày đêm” (Et 4,16). Đây là lần đầu tiên Ét-te đảo ngược vai trò với Moóc-đo-khai; cô vốn là “thụ tạo” của ông, để cho ông điều khiển trong mọi tình huống, nay đã trở thành người chủ động, người lên tiếng và quyết định và trở thành người ra lệnh “ Moóc-đo-khai rút lui và thi hành mọi chỉ thị của hoàng hậu Ét-te” (Et 4,17). Từ một “con rối”  một “chiêu bài chính trị” trở thành chủ thể: trước kia Ét-te bị Moóc-đo-khai điều khiển và luôn vâng phục ông; giờ đây cô trở thành chủ thể chi phối Moóc-đo-khai khi ban hành các mệnh lệnh.

 
Sau khi ăn chay, cô cởi bỏ y phục tang chế và khoác lên mình tất cả vẻ huy hoàng. “Như vậy, rực rỡ trong vẻ đẹp…” cô đến yết kiến nhà vua và kế hoạch của cô được hoàn thành.


Từ một người phụ nữ dường như chẳng có gì : “đã ba mươi ngày rồi không được triệu vào chầu vua” ( 4,11); “hoàng hậu khụy xuống, tái mặt… tựa đầu vào cô cung nhữ” (Et 5,1d); Ét-te trở thành một người phụ nữ có thể làm được mọi sự: cô mời vua và Ha-man dự yến tiệc, và yêu cầu nhà vua treo cổ Ha-man (Et 7,6tt).

 
Như vậy, sách Ét-te kể câu chuyện về những người phụ nữ yếu thế trong một thế giới do đàn ông thống trị, nhưng lại đạt tới quyền lực và vinh quang. Trong sách Ét-te, trọng tâm vừa cho thấy sự thống trị của nam giới tại triều đình Ba-tư, vừa làm xuất hiện một hình ảnh người phụ nữ ẩn giấu nay trở nên được nhận biết.


Từ một “người phụ nữ-xem như đồ vật” trong tay Moóc-đo-khai, Ét-te dần chiếm lấy vị trí của mình như một “người phụ nữ-chủ thể”. Bởi lẽ, với tư cách là một hoàng hậu đích thực, được giải phóng dần khỏi những nỗi sợ hãi (chương 4), cô xuất hiện tự do trước mặt vua (5,1), chứ không phải như một người phụ nữ bị phô bày, bị dâng hiến cho dục vọng của bậc quân vương.

 
Tóm lại


Vát-ti và Ét-te là hai hình ảnh người phụ nữ có số phận gần như giống nhau: cả hai đều là phụ nữ-bị tước mất tư cách chủ thể trong ham muốn của đàn ông, nhưng họ đều khao khát trở thành phụ nữ–chủ thể hành động. Tuy nhiên, trong hai người, chỉ có một người thực sự đạt được điều đó.


Dù địa vị của họ khác nhau, những người phụ nữ này đều hiện diện để trao ban ý nghĩa cho cuộc sống: bảo vệ phẩm giá của người phụ nữ (như Vát-ti), cứu sống con người (như Ét-te cứu dân Do Thái khỏi tay Ha-man), tái lập hòa bình và thực thi công lý. Tuy nhiên, bối cảnh phía sau vẫn là Thiên Chúa, Người “hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 5, 52).


Tài liệu tham khảo

abadie P., « Judith et Esther » dans Biblia, n° 76, février 2009.

abadie P., « Esther, ou l’énigme cachée », dans Lumière et Vie, n° 260, oct-déc 2003, pp. 7-18.

Clines D. J. A., « Esther » in Ezra, Nehemiah, Esther, New century Bible commentary (NCBC), London, 1984.

lacoque A., « Esther » dans Subversives ou un Pentateuque de femmes, Ed. du Cerf, Paris, 1992.


[1]Có nhiều cách dịch các tên : vuaArtacerxès (dịch từ tiếng Hy-lạp); Xerxès « Assuérus » (tiếng Hi-pri  ’Ahaswerôs) ; Haman ou Aman ;  hoàng hậu Astîn, Vasti  ou Vasthi.

[2] Voir lacoque A., Subversives ou un Pentateuque de femmes, Ed. du Cerf, Paris 1992, p. 69.

[3] abadie P., « Judith et Esther » dans Biblia, n° 76.

[4] lacoque A., Subversives ou un Pentateuque de femmes, Ed. du Cerf, Paris 1992, tr. 69 tt.


Nt. Catarina Thuỳ Dung, OP