NỘI DUNG

I. “Đạo sinh hoạt”

 

1. Thử truy tìm nguồn gốc

2. Thử nhận định về hiện trạng Giáo hội Việt Nam

3. Nhìn lại một chút về sứ mệnh của Giáo hội

II. “Đạo” Hiếu Kính

 

1. Thái độ kính sợ đối với Thiên Chúa

2. Nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa 

3. Đời sống Kitô hữu 

III. “Đạo” Thiêng Liêng”

 

1. Vài hiện tượng

2. Vài nhận định 

3. Tìm lại ý nghĩa Đức Tin 

IV. “Đạo” Luân Lý 

 

1. Các thánh trong Giáo hội 

2. Nẻo đường luân lý 

3. Nhìn từ góc độ nhân học Kitô giáo 

4. Cứu độ bằng tình thương

V. “Đạo” Thực dụng 

 

1. Căn bệnh của nguyên tổ 

2. Căn bệnh của nhân loại

3. Những cơn Cám dỗ đối với đức Giêsu 

4. Vận mạng con người là gặp gỡ trong yêu thương 

5. Những lệch lạc trong đời sống đức Tin Kitô giáo

“ĐẠO” SINH HOẠT
 

Tổ chức chặt chẽ và sinh hoạt rầm rộ, đó chính là nét nổi bật nhất trong khuôn mặt của Giáo hội Công giáo. Ở đâu có người Công giáo, ở đó có nhà thờ, có giờ kinh giờ lễ, có ban bệ tổ chức… Có lẽ cũng có những người bên ngoài thầm thán phục và muốn áp dụng phương thức này cho các tổ chức, đoàn thể hoặc tôn giáo của họ. Thật sự không ai có thể chối rằng những tổ chức và sinh hoạt như thế đã góp phần làm cho đời sống đức Tin được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Tuy nhiên, chính nét ưu điểm ấy lại hàm chứa những nguy cơ sâu xa, nhất là khi nó trở thành một thứ “đạo”, một thứ nguyên lý chi phối toàn bộ đời sống đức Tin chân thực của Giáo hội.

Nhiều Kitô hữu, cho đến hiện nay, vẫn chỉ sống đạo theo kiểu gắn đời mình vào cỗ xe của những sinh hoạt trong giáo xứ hay đoàn thể. Họ tham gia đều đặn hoặc tích cực vào nhiều sinh hoạt đạo, nhưng lại không một chút bận tâm về thái độ cá nhân của mình đối với Chúa; họ tranh luận và bàn cãi sôi nổi với nhau về giáo lý, về cách thức tổ chức, nhưng lại không bao giờ có được một chọn lựa của đức Tin cho bài toán cuộc đời mình; họ vẫn giữ đúng giới luật của Chúa và Hội Thánh nhưng lại không có khả năng chấp nhận Thánh ý Chúa khi gặp một hoàn cảnh trái ý, hoặc chẳng bao giờ khám phá ra được một ý nghĩa siêu nhiên trước những biến cố trong cuộc sống thường ngày.

Chúng ta có thể thấy rõ thứ đạo sinh hoạt này trong nhiều xứ đạo, nhất là những xứ đạo di cư và đặc biệt là trong những xứ đạo lâu năm không có linh mục. Điều mà một thời người ta cho là sự vững chắc của đức Tin, thật ra, phần lớn chỉ là sự “vững chắc” của những tổ chức sinh hoạt mà không có bao nhiêu lòng tin cá vị vào Thiên Chúa, chẳng có bao nhiêu giá trị Tin Mừng trong thái độ sống, và cũng chẳng thể hiện chút gì ý nghĩa đức Tin trong thái cử hằng ngày.


1. THỬ TRUY TÌM NGUỒN GỐC

1.1 Đức Tin trong thời kỳ "Kitô giới"

Ở Tây phương, thời kỳ Trung cổ nói chung được gọi là thời đại "Kitô giới" (chrétienté), nghĩa là thời đại mà ảnh hưởng Kitô giáo tràn ngập trong mọi ngõ ngách, mọi lãnh vực. Trong xã hội ấy, văn hoá và sinh hoạt Kitô giáo được tổ chức và sắp xếp để bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào người Kitô hữu cũng thấy mình nằm trong thế giới của tôn giáo. Tính chất tôn giáo hiển hiện rõ rệt và tạo nên một "cái khung"; không những là khung cảnh, nhưng còn là một khuôn khổ có khuynh hướng trở nên tiêu chuẩn duy nhất của một đời sống đạo tốt đẹp. Quan niệm chung chung trong tâm thức người Kitô hữu khi ấy là : sinh hoạt càng sầm uất thì đời sống đạo càng phong phú và sốt sắng…

Trong cái khung ấy, nhiều Kitô hữu sống đức Tin bằng cách tham dự các sinh hoạt tôn giáo; còn giữ đạo nghĩa là còn tham dự các sinh hoạt đạo; giữ đạo sốt sắng nghĩa là tham dự nhiều sinh hoạt tôn giáo. Hơn nữa, nhiều khi cái khung ấy còn thay thế cho tâm tình tôn giáo đích thực, thay thế cho niềm tin như một sự gắn bó cá vị với Chúa và thể hiện những giá trị đích thực của Tin Mừng. Trong khuôn khổ ấy, người ta cảm thấy không đọc kinh sáng tối, không làm dấu trước khi ăn, không kiêng thịt ngày thứ Sáu ... là phạm tội, nhưng lại không thấy áy náy chút gì cả khi thể hiện một lối sống và thái độ trái ngược với Tin Mừng của Chúa.

1.2 Kinh nghiệm về đời sống đức Tin trong thời tục hoá

Thế nhưng, khởi từ thế kỷ XVI, trào lưu tục hoá xuất hiện và cứ lớn mạnh lên dần, lớn mạnh theo đà phát triển của các khoa học thực nghiệm, các môn học đời, các nghệ thuật đời; những trào lưu ấy dần dần xâm lấn vào mảnh đất của tôn giáo trước đây. Sau cùng, trào lưu tục hoá thể hiện qua các biến cố chính trị và trở thành những biến cố làm rung chuyển vị thế Giáo hội. Cách mạng Pháp 1789 là một biến cố mở màn cho một tiến trình giới hạn hoặc loại trừ các sinh hoạt tôn giáo. Dần dần người ta đi đến khái niệm phân biệt rõ ràng đạo và đời.

Ban đầu các vị giáo hoàng và những vị hữu trách trong Giáo hội tìm mọi cách để phục hồi vị thế thống lãnh trước đây của mình; tìm cách tái xây dựng một xã hội "Kitô giới" càng giống với "thời hoàng kim" của mình bao nhiêu càng tốt; các hình thức của lòng sùng mộ công cộng được khuyến khích phát triển tối đa trong mức độ luật lệ nhà nước cho phép : đọc kinh liên gia, tổ chức những đoàn hội, phát triển nhiều sinh hoạt trong khuôn viên giáo xứ … Tuy nhiên, những nỗ lực ban đầu ấy vẫn chỉ nhằm mục đích bành trướng sinh hoạt nhằm xây dựng lại "cái khung" Kitô giới trước đây.

            Dần dần, Giáo Hội cũng nhận ra rằng không thể quay ngược dòng lịch sử; trào lưu tục hoá ngày càng lớn mạnh và hầu như không có gì ngăn cản nổi. Thế rồi, từ khoảng cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, những yếu tố tưởng chừng như đe dọa phá hủy đời sống Kitô giáo như thế lại là một cơ may để nhiều Kitô hữu tìm lại ý nghĩa, giá trị đích thực của niềm tin[1].

            Khi phải đối diện với những giá trị và những cám dỗ trần thế, đức Tin của người Kitô hữu bị cật vấn và một số Kitô hữu lại khao khát tìm hiểu sâu xa hơn niềm Tin của mình. Bị quăng vào một xã hội trần tục, nhiều Kitô hữu, giờ đây, mới cảm thấy nhu cầu sống đức Tin chân chính, thuần khiết của Kitô giáo. Trước nhu cầu tự biện minh và làm chứng cho Đức Tin giữa xã hội trần tục, nhiều Kitô hữu nhận ra ý nghĩa đời sống đức Tin và trách nhiệm thể hiện niềm tin của mình bằng những gì căn bản nhất của Kitô giáo, đó là lòng bác ái, lòng Tin, Cậy, Mến trong cuộc sống hằng ngày, chứ không phải bằng cách đấu tranh để thiết lập một thế giới Kitô giáo như xưa nữa. Ý thức mới này thực sự là một luồng gió của Thánh Thần để mở ra nhiều cuộc canh tân tốt đẹp[2] : canh tân ý thức đức Tin, canh tân sinh hoạt phụng vụ và canh tân ý thức tông đồ. Đức Tin trở thành một nhu cầu thật của cuộc sống và chính nhu cầu ấy lại góp phần canh tân tổ chức phụng vụ...

            Khi đời sống đạo chỉ là nếp sinh hoạt thì phụng vụ chỉ còn là một việc phải làm để giữ đạo; nỗ lực của phụng vụ chỉ là làm sao cho người tín hữu tham dự cách sinh động và sốt sắng lúc cử hành nghi thức. Ngược lại, khi đức Tin trở thành một nhu cầu thật, phụng vụ mới trở nên nguồn mạch và là nơi người giáo dân tìm đến để kín múc chất liệu cần thiết cho cuộc sống của mình. Rồi việc canh tân phụng vụ lại thúc đẩy những nỗ lực canh tân cách giải thích Kinh Thánh và nhiều lãnh vực khác.

1.3 Tìm căn nguyên trong Giáo hội Việt Nam

            Hình như đời sống Kitô giáo ở Việt Nam, được truyền bá từ Tây phương vào thế kỷ XVI, vẫn còn giữ nguyên bầu khí của thời Trung cổ Tây phương. Trong một thời gian dài, người Kitô hữu Việt Nam thường tụ tập lại thành xóm đạo và đời sống có phần đóng kín trong những sinh hoạt của làng xóm.... Mọi sinh hoạt, đạo và đời, thường được tổ chức một cách kỹ lưỡng và bao trùm hết đời sống. Đời sống đức Tin của mỗi người, do đó, vẫn còn được tháp nhập vào sinh hoạt đạo đức trong giáo xứ và vẫn "chạy" trong quĩ đạo của những tổ chức tôn giáo.

            Thế nhưng ngày nay, đặc biệt trong thời kinh tế thị trường, người Kitô hữu không còn đóng kín sinh hoạt của mình trong các xóm, xứ đạo. Không gian sinh hoạt hằng ngày mở rộng tới các sinh hoạt đời, trong một thế giới trần tục; bầu khí "văn hoá" của người Kitô hữu không còn thuần khiết tôn giáo. Chính trong giai đoạn này, ta thấy khuôn khổ đời sống đạo của người Kitô hữu Việt Nam có nhiều dấu vết rạn nứt, đặc biệt trong những xứ đạo vốn có truyền thống sinh hoạt tôn giáo sầm uất. Một số Kitô hữu sống xa ảnh hưởng của sinh hoạt tôn giáo, cả về không gian lẫn 'văn hoá", và cảm thấy ý nghĩa tôn giáo phai lạt dần. Một số đông hơn vẫn tham dự các sinh hoạt tôn giáo nhưng chỉ quan niệm giữ đạo là giữ sinh hoạt đạo như trước đây; sinh hoạt đạo là những nghĩa vụ phải chu toàn, những đòi buộc, theo thói quen lâu đời của truyền thống gia đình, của giáo xứ. Do đó, khi đời sống xã hội có nhiều sinh hoạt khác cần thiết và hấp dẫn hơn, họ bắt đầu thấy sinh hoạt tôn giáo là một điều vướng víu, nặng nề và muốn từ bỏ. Cũng có một số ít Kitô hữu dần dần khám phá ra nhu cầu đức Tin trong đời sống của mình, đức Tin như là dưỡng chất cho tâm hồn và là ánh sáng soi chiếu cho những giải pháp trong cuộc sống của mình.

            Tuy nhiên, nếu đời sống đức Tin vẫn được quan niệm, chủ yếu, chỉ như là những sinh hoạt tôn giáo, chiếm một khoảng không gian và thời gian nhất định, nó sẽ đứng vào vị thế đối đầu và cạnh tranh với các sinh hoạt khác, một sự cạnh tranh "không khoan nhượng".

            Phải chăng, với nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, Giáo hội Việt Nam cũng đang phải đấu tranh với một trào lưu tục hoá ? Liệu chừng sinh hoạt của Giáo hội Việt Nam vẫn có thể tiếp tục cuộc đối đầu trong thế mạnh với các sinh hoạt và nhu cầu trần thế đang càng ngày càng gia tăng ?

            Trước những câu hỏi ấy, chúng ta phải tự hỏi xem "thế mạnh" của Kitô giáo nằm ở đâu ? Kinh nghiệm về việc khám phá lại đời sống đức tin trong lịch sử Giáo hội có thể hữu ích cho việc canh tân đời sống Kitô hữu tại Việt Nam hiện nay không ?


2. THỬ NHẬN ĐỊNH VỀ HIỆN TRẠNG GÍAO HỘI VIỆT NAM

2.1 Một đời sống đạo dựa dẫm vào nếp sinh hoạt

            Nhiều người Kitô hữu và một số chức sắc ngoại quốc đã từng trầm trồ về nét sinh hoạt sầm uất của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Cho tới hiện nay, bước vào thiên niên kỷ thứ III, chúng ta vẫn tương đối an tâm khi nhìn vào các nhà thờ trong giờ lễ, khi nhìn thấy đông đảo tín hữu, nhất là giới trẻ, trong các dịp tĩnh tâm; chúng ta cũng ngạc nhiên khi thấy vẫn còn, và ra như càng ngày càng nhiều hơn, những chuỗi người xếp hàng dài chờ xưng tội…

            Tuy nhiên, trong lòng những tổ chức và sinh hoạt ấy, đời sống đức Tin có tính chất cá vị hình như lại khá yếu kém. Phần lớn các nhà thờ của chúng ta thường đông người trong những giờ có tổ chức sinh hoạt phụng vụ, nhưng lại vắng hoe khi không có tổ chức nào. Ta thấy rất ít những người đến với Chúa một cách hoàn toàn tự nguyện và xuất phát từ nhu cầu đức Tin trong cuộc đời. Người ta chỉ đến với Chúa vì lề luật, vì sinh hoạt hoặc để xin vài ơn cụ thể nào đó.

            Tổ chức giáo xứ của chúng ta có những ban bệ khá vững chắc, nhưng lại không thể hiện được bao nhiêu cách sống thấm nhuần Tin Mừng. Nhiều giáo xứ, nhất là những giáo xứ lâu năm không có linh mục, vẫn tổ chức các sinh hoạt đạo sầm uất : làm hang đá, rước kiệu, táng xác Chúa, cờ xí, chuông trống, áo xống, ngắm nguyện... Thế nhưng, ngay trong chính những sinh hoạt đạo ấy, người ta lại có thể đấu đá nhau sát ván bằng những phương thức không có một chút men Tin Mừng nào, ngay cả bằng những phương thức xã hội đen.

            Nhiều người sinh hoạt lâu năm trong hội đoàn, nhiều em sinh hoạt một thời gian dài trong nhóm giúp lễ, nhưng khi hết hội đoàn, rời bỏ nhóm, thì tâm hồn cũng chẳng còn một chút gì là giá trị đạo. Nhiều trường hợp các em lại còn hư hỏng thêm do “gần chùa gọi bụt bằng anh”, hoặc do việc kết bè kết nhóm khi sinh hoạt hội đoàn. Nguyên do cũng chỉ vì sinh hoạt trở thành “đạo”, thành nguyên lý; và hết sinh hoạt, thì đạo cũng hết. Công đồng Vatican II, sắc lệnh về Chức vụ và Đời sống Linh mục, viết :

 “Những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ cũng không có ích bao nhiêu, nếu chúng không hướng về việc giáo dục con người đạt tới sự trưởng thành Kitô giáo. Để đạt đến sự trưởng thành đó, các linh mục phải giúp họ sáng suốt nhận ra trong các biến cố lớn nhỏ đâu là việc phải làm, đâu là ý Chúa muốn [3].(LM 6)

2.2 Một đời sống đạo chỉ qui chiếu vào luật lệ

            Cung cách sống đạo của phần lớn Kitô hữu hiện nay là cố gắng chu toàn các giới răn của Chúa. Đời sống đức Tin được qui định bằng luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể : làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay…

            Có lẽ nhiều "chức sắc" trong Giáo hội vẫn đặt người tín hữu vào vị thế như những giáo dân thời Trung Cổ, nghĩa là coi họ như những Kitô hữu ít học và cần những hướng dẫn tỉ mỉ, rõ ràng để giữ luật bằng cách chu toàn những việc cụ thể. Điều ấy ngày nay lại có nghĩa là dùng phương thức của trẻ con để giáo huấn những người lớn : kiêng thịt chứ không phải là tự nguyện có một chút hy sinh; ăn chay nghĩa là "một bữa no hai bữa đói" và có thể "mất chay" nếu lỡ ăn bất cứ điều gì ngoài ba bữa chính, chứ không phải là một hành vi nói lên lòng khao khát Chúa; đi lễ Chúa Nhật thế nào cho "thành sự" chứ không phải kín múc nguồn mạch sức sống cho cuộc sống thường ngày; làm dấu trước bữa ăn thay vì một tâm tình tạ ơn….

            Trong những nếp qui định ấy, có khá nhiều Kitô hữu hiện nay rõ ràng đã không sống được một tâm thức của đức Tin chân chính. Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với Chúa; người Kitô hữu đi lễ như một trách nhiệm phải chu toàn chứ không sống tinh thần hiệp thông với cộng đoàn để tạ ơn Chúa; nhiều bạn trẻ tránh tội vì sợ Chúa phạt, nên khi lỡ phạm một tội trọng (chẳng hạn bỏ lễ Chúa Nhật) thì chọn lập trường "cùi không sợ lở", “chơi luôn”... cho đến khi xưng tội lại. Nhiều người rất sốt sắng trong việc nhà đạo, nhưng không sống một chút giá trị lòng thương yêu và tôn trọng những người bé mọn, sự cảm thông, tha thứ, cái nhìn của đức Tin siêu nhiên… Do đó, chúng ta thấy nhiều người Kitô tính toán chi tiết để khỏi vi phạm luật, nhưng không hề thấy lỗi lầm của mình trong những việc không thấy ghi rõ các các giới răn, chẳng hạn làm cho những người chung quanh phải khổ…

2.3 Đánh giá giáo sĩ và tu sĩ qua sinh hoạt

            Trong Giáo hội Việt Nam, những tổ chức và sinh hoạt đạo phần lớn gắn liền với một "tầng lớp", giáo sĩ và tu sĩ. Trong tâm thức người Kitô hữu Việt Nam, có thể nói, sự hiện diện của tầng lớp này chính là "linh hồn" của Giáo hội.

            Tuy nhiên, giáo dân thường cần tới giáo sĩ và tu sĩ như là những người đáp ứng các sinh hoạt chứ không phải đáp ứng nhu cầu đức Tin. Những địa phương, những tổ chức và sinh hoạt được các giáo sĩ và tu sĩ đảm nhận thì sinh hoạt phát triển. Uy tín và tầm quan trọng của giáo sĩ và tu sĩ rõ ràng cũng được đánh giá dựa theo tiêu chuẩn này. Rất nhiều bạn trẻ đi tu vì thích những hoạt động của giáo sĩ hoặc tu sĩ chứ không phải vì nét đẹp của người rao giảng Tin Mừng. Giáo sĩ và tu sĩ được coi như là những người có địa vị trong tổ chức Giáo hội, “có việc làm” trong “ban bệ” tổ chức sinh hoạt của Giáo hội.

            Nhiều bạn trẻ đi tu để tìm một vị thế trong tổ chức và để thể hiện mình trong những sinh hoạt của Giáo hội. Linh mục vốn được trọng dụng hơn các tu sĩ, bởi vì linh mục có vị thế quan trọng hơn trong các tổ chức và sinh hoạt; tu sĩ có khả năng hoạt động có vẻ như vẫn "hợp thời" hơn những tu sĩ sống tinh thần Tin Mừng cách âm thầm… Như thế chúng ta cũng hiểu tại sao người Việt Nam thích đi tu làm linh mục nhiều hơn, thích các dòng hoạt động nhiều hơn, và thường đánh giá một giáo sĩ hay tu sĩ theo khả năng tổ chức và sinh hoạt chứ không phải trong ý nghĩa đời sống đức Tin và giá trị Tin Mừng. Bạn trẻ có thể quý mến một tu sĩ coi cổng thật nhân ái, nhưng vẫn thích làm linh mục để xuất hiện trước cộng đoàn.

2.4 Giáo sĩ và tu sĩ khẳng định mình trong sinh hoạt

            Giới giáo sĩ và tu sĩ Việt Nam đang có rất nhiều nỗ lực để canh tân sinh hoạt tôn giáo. Giáo hội Việt Nam, nói chung, vẫn còn khá nhiều ơn gọi và vẫn còn một lực lượng giáo sĩ, tu sĩ tương đối trẻ, năng động, để có thể xoay sở trong những sinh hoạt tôn giáo nhằm thu hút sự tham gia của người Kitô hữu. Quả thật, hiện nay, chính những nỗ lực sáng tạo, đổi mới hình thái sinh hoạt tôn giáo cho hấp dẫn hơn, sinh động hơn, đang là sức mạnh chính yếu để giữ gìn nếp sống đạo trong Giáo hội Việt Nam.

            Tuy nhiên, trong bầu không khí chung của một thứ “đạo sinh hoạt”, phần lớn giáo sĩ và tu sĩ có lẽ cũng không thoát được tâm thức chung. Khả năng khẳng định mình trong sinh hoạt Giáo hội đã trở thành “giá trị” lớn trong lòng Giáo hội Việt Nam và chính "giá trị" ấy đang tác động sâu xa trong mọi lãnh vực, cả trong ý nghĩa ơn gọi.

            Do đó, tầng lớp giáo sĩ và tu sĩ nhận thấy trách nhiệm chính yếu của mình là đảm nhận những tổ chức và sinh hoạt trong Giáo hội; và ngầm hiểu rằng điều làm nên “sức sống” của Giáo hội Việt Nam cũng chính là những sinh hoạt và tổ chức sầm uất… Nhiều giáo sĩ và tu sĩ bận tâm chuẩn bị những "kỹ năng" cần thiết trong sinh hoạt của Giáo hội nhiều hơn là bận tâm sống giá trị Tin Mừng. Nhiều giáo sĩ và tu sĩ nỗ lực làm cho tổ chức phụng vụ được hấp dẫn và lôi cuốn chứ không mấy ưu tư cần làm gì để nuôi dưỡng đức Tin chân chính và thật sự loan báo Tin Mừng cứu độ.

            Chính vì thế, sinh hoạt và tổ chức trong Giáo hội Công giáo được củng cố vững chắc hơn mọi tôn giáo khác, nhưng phẩm chất đời sống đích thực của người Kitô hữu thể hiện trong cuộc sống hằng ngày có lẽ cũng chẳng hơn ai.

            Mặt khác, chúng ta thấy không hiếm những tu sĩ, giáo sĩ, trong vai trò, trách nhiệm của mình, đã hết mình khuyên nhủ, dạy dỗ người giáo dân những điều hay lẽ phải; nhưng khi lọt ra khỏi vị thế và trách nhiệm của mình, trong một hoàn cảnh khác hoặc sống một vị thế khác, thì lại ứng xử một cách khá "tự nhiên" như bất cứ một người nào khác, những cách ứng xử không biểu lộ một chút nào tinh thần của Tin Mừng. Cũng như với các người sinh hoạt trong hội đoàn, một tu sĩ bỏ ơn gọi, thường thường, chẳng mấy chốc cũng trở lại một con người hết sức bình thường và tầm thường như mọi người khác.

2.5 Bệnh sáo ngữ

            Quĩ đạo sinh hoạt còn lôi kéo theo nhiều căn bệnh khác trong đời sống Giáo hội : bệnh hình thức và nguy hiểm hơn là “bệnh sáo ngữ”. Nhiều linh mục tu sĩ phải cố gắng trau dồi kỹ năng giảng thuyết, chủ yếu, để khẳng định mình trong sinh hoạt. Kỹ năng ấy dĩ nhiên là cần thiết; nhưng ta cũng thấy có khá nhiều điều được nói trên toà giảng chỉ là những sáo ngữ, những điều mà người nói đã học được, đã cố suy nghĩ để có cái mà nói, đã trau chuốt để thêm hấp dẫn; nhưng tự thâm tâm cũng không biết rằng người nghe có thể sống được điều ấy không, hoặc chính người nói cũng chẳng bao giờ cố gắng một chút để sống điều mình nói…

            Bệnh sáo ngữ làm cho những điều được nói trở thành ngôn từ thuần túy hoặc tư tưởng thuần túy. Những điều ấy thường cũng được giáo dân đón nhận theo cung cách “sáo”, giảng vui hay giảng buồn, hấp dẫn hay nhàm chán. Không có một thái độ tự chủ để nhận định, không có thái độ chân thành để lắng nghe lời mời gọi của Tin Mừng cho chính mình, thì cũng không có nét “sáng tạo”, một sự sáng tạo bình thường, xuất phát từ sự gặp gỡ thực sự giữa lời ngỏ đặc thù của Chúa và cá nhân đặc thù của người nghe. Những lời nói như thế không có được cái hồn, biểu lộ trong một lối nhìn riêng, một vài ngôn từ riêng, một khía cạnh cảm nhận riêng. Những ngôn từ ấy không có “cá tính” nhưng là những sản phẩm đúc khuôn, sản phẩm nhái. Chính vì thế, những lời giáo huấn cũng không đến được với tâm hồn thính giả, mà chỉ loanh quanh trong một lô sáo ngữ quen thuộc và không làm chứng được một sức sống của Lời Chúa. Chính “đạo sinh hoạt” là môi trường nuôi dưỡng và củng cố thái độ sáo ngữ. Do vậy, người ta còn thấy rất nhiều những lời cám ơn, những lời chào đón, giới thiệu, những lời chia buồn, chia vui trong dịp tang ma hiếu hỷ đầy những sáo ngữ.

            Mặt khác, nhiều giáo huấn của những người có trách nhiệm trong Giáo hội được suy diễn từ nếp sống của mình chứ không phải từ nền tảng đời sống Kitô hữu đích thực, biến bài giảng thành những giáo huấn luân lý và kỷ luật, dựa theo nếp sống của giới tu sĩ và linh mục. Nhiều khi lời giảng của linh mục có khuynh hướng lôi kéo người giáo dân ra khỏi cuộc sống thật, để đưa giáo dân vào thế giới của những giá trị “thiêng liêng”[4] hoặc đưa vào khuôn khổ quản trị.   

2.6 Cung cách đoàn lũ

            Trong đạo sinh hoạt, người ta thường phải quan tâm đến sự trật tự, nề nếp, ổn định. Do đó, nhiều mục tử biến chất trở thành những nhà quản trị, những người bận tâm tới nề nếp chung hơn là lưu tâm để đoàn chiên có thể sống dồi dào. Nếu cần, những nhà quản trị có thể thẳng tay gạt bỏ hoặc đàn áp những cá nhân không theo qui luật chung, dù đó là những hoàn cảnh éo le và đáng thương[5].

            Tổ chức phụng vụ phải trật tự, cử điệu diễn tả phải thống nhất, mọi thành phần đều phải giữ đúng giờ, ngồi đúng chỗ… Nhiều chuyên gia phụng vụ chỉ quan tâm “làm sao cho đúng” chứ ít để ý “làm sao để nuôi dưỡng đức Tin”. Khi những người có trách nhiệm, linh mục, ông trùm, bà quản chỉ quan tâm đến quản trị, thì những người có hoàn cảnh riêng, tâm sự riêng, trở thành những kẻ phá đám. Điều ấy làm cho ta liên tưởng đến “lời dễ ghét” của những người theo Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem quát mắng anh mù đã làm ồn ào, mất trật tự : “Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi” (Lc 18,39). Trong tổ chức sinh hoạt, những con chiên “không ngoan” chẳng tìm đâu được những “lời dễ thương” : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” (Mc 10,49). Với cung cách quản trị như thế, người giáo dân ít được tôn trọng và cảm thông trong hoàn cảnh và tâm tư riêng. Bước nhà nhà thờ, người ta trở thành những con người hoàn toàn của tập thể và phải sống theo qui luật sinh hoạt của tập thể. Trong tổ chức Giáo hội, người giáo dân không được mời gọi để sống đức Tin trưởng thành, có những lựa chọn và thể hiện tấm lòng với Chúa, nhưng phải theo những chỉ dẫn chi li của hàng giáo phẩm và giáo sĩ. Đó là cung cách đoàn lũ !

            Cũng thế, nhiều nhà Dòng tập trung nỗ lực vào đời sống kỷ luật hơn là đào tạo sự trưởng thành. Bước vào tu, người thỉnh sinh được “trao” một thời khóa biểu những sinh hoạt. Trách nhiệm chính của người tu sĩ là bảo đảm đầy đủ các sinh hoạt và chu toàn đúng đắn các công tác được trao trong sinh hoạt chung của cộng đoàn. Mỗi lần hội họp cộng đoàn, người ta nêu lên những sai phạm kỷ luật nhiều hơn là nhắc nhở nét tích cực của tinh thần tu trì. Nói chung, những người lãnh trách nhiệm cộng đoàn thường mong muốn nề nếp cộng đoàn của mình ổn định, không có gì nổi cộm, không có gì trục trặc. Thay vì đồng hành, hướng dẫn từng cá nhân, người có trách nhiệm lại thường đánh giá một tu sĩ dựa theo việc chu toàn các “giờ sinh hoạt” … Những điều này lại cũng góp phần tạo nên một cung cách đoàn lũ trong giới tu sĩ.


3. NHÌN LẠI MỘT CHÚT VỀ SỨ MỆNH CỦA GIÁO HỘI
[6]

            Có thể nói hầu hết mọi người thời Chúa Giêsu, từ những người Do Thái, những người nghèo được Chúa cứu chữa và cho ăn bánh cho đến các môn đệ của Chúa Giêsu đều tưởng rằng Đấng Mê-si-a sẽ thiết lập Nước Trời bằng cách tổ chức một triều đình, với các chức tước và đạo quân hùng mạnh để chinh phục và thống trị muôn dân.

            Thế nhưng Đức Giêsu lại đã đi con đường cứu độ theo Thánh ý Chúa Cha. Đó là con đường rao giảng Nước Trời với những giá trị mới, những giá trị có khả năng đón nhận mọi người, nhất là những người bé mọn và bị loại trừ: khó nghèo, hiền lành, thương xót, tha thứ, tôn trọng những người bé mọn, tin tưởng và gắn bó với Chúa trong niềm Tin (xc. Mt 5-7 và //) ... Rồi Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để làm bảo chứng cho những hạt men, hạt mầm Nước Trời ấy (xc. Lc 13, 18-21) được chiến thắng.

            Giáo hội được triệu tập, có Chúa Giêsu Phục Sinh luôn ở cùng (xc. Mt 28,20) và nhờ quyền năng Thánh Thần của Ngài (xc. Lc 24, 49) để đảm nhận trách nhiệm gieo vãi men Tin Mừng khắp thế gian.

            Do đó, biến cố Đấng Mê-si-a đến được kéo dài thành quãng thời gian giữa hai lần Chúa đến, đó là thời gian Cánh chung và là thời gian của Giáo hội. Tất cả ý nghĩa, tất cả lý do hiện hữu của Giáo hội là, sống giữa hai lần Chúa đến, nỗ lực loan báo Tin Mừng, làm cho Nước Trời được rộng mở và thấm nhập vào trần gian. Giáo hội được triệu tập và tổ chức hữu hình không phải là để tự củng cố và trở nên hùng mạnh, nhưng là để trở nên “Bí tích Nước Trời” ở trần gian (xc. GH 1), để gieo vãi hạt giống Tin Mừng và làm cho chính trần gian này trời thành Nước Trời mai sau.

“Tất cả chúng ta được mời gọi gia nhập Giáo hội trong Chúa Kitô, và nhờ ân sủng Thiên Chúa, chúng ta nên thánh trong Giáo hội. Và Giáo hội chỉ kết thúc trong vinh quang trên trời, khi thời cải tạo mọi sự đến (xc. Cv 3,21) và khi toàn thể vũ trụ cùng với loài người được thiết lập toàn vẹn trong Chúa Kitô, vì vũ trụ liên kết mật thiết với con người và nhờ con người đạt được cùng đích của mình (xc. Ep 1,10; Cl 1,20; 2Pr 3,10-13)”(GH 48a).

KẾT

            Liệu Giáo hội Công giáo Việt Nam có nguy cơ không còn là một cộng đoàn những người tin, nhưng biến thành một tổ chức ?

            Dĩ nhiên, cần phải nhắc lại một lần nữa, không ai chủ trương một Giáo hội không có tổ chức hay sinh hoạt; và cũng không ai dám phủ nhận giá trị của những tổ chức và sinh hoạt ấy trong Giáo hội. Kitô giáo hoàn toàn không phải là một thứ đạo tại tâm, nhưng là một sự liên kết, hiệp thông, gắn bó cụ thể với Đức Giêsu qua anh chị em của mình và qua Giáo hội hữu hình. Qua những tổ chức và sinh hoạt trong Giáo hội, người Kitô sống mối hiệp thông với Đức Giêsu; đồng thời, qua những tổ chức và sinh hoạt của mình, Giáo hội có thể tìm thấy một phương cách tốt để giáo dục đức Tin cho người Kitô hữu.

            Tuy nhiên, có lẽ chính qui luật quản trị đã ảnh hưởng trên Giáo hội quá nhiều. Một cách nào đó, có lẽ Giáo hội, đặc biệt Giáo hội Việt Nam, đã đi vào vết xe của những người Do Thái thời Chúa Giêsu, và cũng là ảo tưởng của các tông đồ khi theo Chúa Giêsu : ảo tưởng một Nước Thiên Chúa hiển hiện và thống trị trong thế giới trần gian này.

            Nước Chúa trong giai đoạn hiện nay lại chính là hạt cải cần phải được vun trồng, là nắm men cần thời gian để dậy men cho cả thúng bột… Giáo hội trở nên như muối, như ánh sáng, trước tiên, không phải do những tổ chức và sinh hoạt sầm uất, nhưng như những thực tại của Nước Chúa, những giá trị của Tin Mừng, đang gieo niềm hy vọng về một thế giới đại đồng, thế giới yêu thương, thế giới hạnh phúc trọn vẹn.

Giấc mơ về ngôi nhà thờ làng tôi :       

Ngôi nhà thờ làng tôi có một phòng dành riêng để cất giữ Mình Thánh Chúa; căn phòng nhỏ bên cạnh gian chính của nhà thờ, căn phòng kín đáo, ấm cúng và gần gũi để người tín hữu có thể cầu nguyện với Chúa Giêsu Thánh Thể một cách thân tình. Lòng nhà thờ được thiết kế như một sự qui tụ, bàn thờ ở trung tâm, mọi người ngồi vòng tròn xung quanh bàn thờ.

Trước giờ thánh lễ, vị linh mục mặc áo lễ ngồi sẵn nơi ghế chủ tọa cộng đoàn. Tín hữu vào nhà thờ, chào linh mục và chào hỏi nhau. Linh mục có thể giới thiệu một ai đó với cộng đoàn; ông trùm phân chia công tác trong thánh lễ; vị ca trưởng tập hát một chút cho cộng đoàn... Tất cả diễn ra trong bầu không khí thân ái, vui tươi, nhẹ nhàng, không cần phải trang nghiêm và nghi thức; các tín hữu có thể gặp gỡ, biết nhau và hiệp thông với nhau nhiều hơn qua vài câu chào hỏi.

Trước giờ lễ, mỗi người có thể tự nhiên nói lên ý nguyện của mình, hoặc viết ý nguyện vào một mảnh giấy nhỏ, đặt trên bàn thờ để linh mục đọc cho mọi người cùng hiệp thông. Sau bài giảng của linh mục cũng như sau khi rước lễ, cộng đoàn dành một vài phút thinh lặng, như hướng dẫn của Qui chế Thánh Lễ, để mỗi người có thể nghe Lời Chúa và đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể “đến” với hoàn cảnh thật của cộng đoàn, đến với từng cá nhân cũng như từng hoàn cảnh riêng của mỗi người tín hữu. Khi chúc bình an, mọi người có thể di chuyển, gặp gỡ, nói lời chúc tốt đẹp của mình với người bên cạnh, nhất là với những người đã tỏ bày cùng cộng đoàn vấn đề của mình trong ý nguyện của Thánh lễ. Khi rước lễ, mọi người “tự do” xúm xít quanh bàn thờ như bàn tiệc của cộng đoàn, lãnh nhận Mình Thánh Chúa từ tay linh mục; không cần xếp hàng, mà cũng chẳng phải được “phát chẩn”.

             Đó là giấc mơ về ngôi nhà thờ và sinh hoạt phượng tự ở làng tôi; ngôi nhà thờ và sinh hoạt phượng tự vượt qua tính nghi thức cứng đọng vốn khó đụng chạm được đến cuộc sống thật; vượt qua tinh thần quản trị đoàn lũ vốn không để cho cá nhân sống thanh thản bộc lộ bản thân của mình; vượt qua thái độ khúm núm và sợ sệt trước mặt Chúa như một ông vua uy nghi.
 


[1] X. Y. Congar, trong Encyclopédie de la Foi, Les Éditions du Cerf, Paris 1967, tome II, đề mục Laic, trang 442.

[2] X. Bùi Đức Sinh, Lịch sử Giáo Hội Công Giáo, in lần 2, Chân lý xuất bản, Sài Gòn 1975, Phần Nhì, trang 236.

[3] Những trích dẫn Công Đồng Vatican II trong tập sách này đều lấy trong bản dịch của Phân Khoa Thần Học Giáo Hoàng Học Viện thánh Pio X.

[4] Xc. Bài “Đạo” thiêng liêng.

[5] Trong cuốn phim nổi tiếng của Liên Xô trước đây, phim “Sám Hối”, chúng ta nghe được một mẩu đối thoại giữa Abe, người con của nhà độc tài Varlam, và Tokike, con của Abe và là cháu của Varlam, như sau :

-    Tonike : Chuyện về ông nội.

+   Abe : Ông con không làm điều gì xấu cả; hồi đó là thời kỳ phức tạp. Bây giờ khó mà giải thích được tất cả..

-    Tonike : Thời kỳ thì có nghĩa lý gì ở đây ?

+   Abe: Có đấy con ạ. Tình hình lúc đó khác. Người ta phải giải quyết vấn đề : tồn tại hay không tồn tại. Kẻ thù bao vây chúng ta, chúng chống lại ta. Theo con thì ta phải làm gì ? xoa đầu chúng à ?

-    Tonike : Thậm chí Barateli cũng là kẻ thù sao ?

+   Abe : Đúng thế, ông ta có thể là một hoạ sĩ giỏi, nhưng có nhiều điều ông ta không hiểu. Hơn nữa, ba không nói rằng chúng ta đã không có sai lầm. Cuộc sống của một hai người có nghĩa lý gì khi vấn đề liên quan đến hạnh phúc hằng triệu người khác ? Nhiệm vụ của chúng ta hồi đó thật là nặng nề. Con phải nhớ điều đó, phải biết nhìn xa thấy rộng hơn.

-    Tonike: Nghĩa là các người dùng phép tính số học để giải quyết số phận con người, so sánh tỷ lệ phải không ?

+   Abe: Chẳng nên lý tưởng làm gì, ranh con ạ. Đã tới lúc con phải biết rằng, đối với một quan chức thì quyền lợi của xã hội bao giờ cũng được đặt cao hơn quan điểm cá nhân. Vâng, chính thế. Con phải hiểu điều đó.

-    Tonike : Người ta sinh ra, rồi sau đó trở thành quan chức....

[6] Xc Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, 2003, bài “Nhiệm Cục Cánh Chung”

 

 


 

   

 

 

 

 

 

“ĐẠO” HIẾU KÍNH


1. THÁI ĐỘ KÍNH SỢ ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA

1.1 Thái độ tự nhiên

  Đối với người Kitô hữu, cũng như trong mọi tôn giáo khác, mối tương quan với Thượng Đế, là Đấng cao cả, Đấng làm chủ tể muôn loài…, luôn được diễn tả với tâm tình kính sợ hoặc hiếu kính[1]. Ngay đối với cha mẹ, với các vị anh hùng, các ân nhân, thái độ hiếu kính cũng đã là điều đương nhiên phải có. Do vậy, hiếu kính thường được coi như là tâm tình "tự nhiên", bình thường, quen thuộc và có thể được coi như thái độ tất yếu trong tôn giáo.

  Trong truyền thống Do Thái-Kitô giáo, đặc biệt trong Cựu Ước, chúng ta có thể thấy trong từng chương, từng sách những diễn tả về thái độ tôn kính của Dân Chúa đối với Thiên Chúa như Đấng Thánh cao cả…

- "Người phán : Chớ lại gần ! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh" (Xh 3,5);   

- "Người phán : Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn còn sống"; và Mô-sê, tôi trung của Chúa, cũng chỉ được thấy lưng của Thiên Chúa mà thôi (Xh 33,20; xc. 33,18-23);

- "Này Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi đã cho thấy Người vinh quang và vĩ đại, và chúng tôi đã nghe tiếng của Người từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi đã thấy rằng Thiên Chúa phán với con người và con người vẫn sống. Bây giờ tại sao chúng tôi phải chết ? Vì ngọn lửa lớn này có thể thiêu rụi chúng tôi. Chúng tôi mà cứ tiếp tục nghe tiếng của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi chết mất. Thật vậy, có người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống ?" (Đnl 5, 24-26);

- Ngay mặt của Mô-sê, kẻ được tiếp xúc với Thiên Chúa, cũng khiến dân chúng không dám nhìn, và ông phải mang tấm khăn che mặt khi tiếp xúc với dân (Xc. Xh 34,29-35);

 - Đặc biệt là kinh nghiệm của Isaia về một Thiên Chúa là Đấng Ba Lần Thánh (Xc. Is 6, 1-5)

Trong Tân Ước, chúng ta cũng có thể tìm thấy một vài nơi diễn tả thái độ hiếu kính đối với Đức Giêsu, chẳng hạn :

- "Thấy vậy, ông Simon-Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói : "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !" (Lc 8,8);

 - "Người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến nói với ông Phê-rô "Chúa đó!". Vừa nghe nói "Chúa đó !", ông Si-mon Phê-rô vội khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhẩy xuống biển" (Ga 20,7).


1.2 Giới hạn

 Tuy nhiên, ngay trong mức độ con người với nhau, người ta đã có thể thấy thái độ hiếu kính thường trở thành "kính nhi viễn chi". Càng kính sợ Thiên Chúa, con người càng xa Chúa; càng đối diện với uy linh của Chúa, con người càng khúm núm và ngại ngần. Thái độ như thế là điều rất bình thường trong Cựu Ước, chẳng hạn :

"Họ nói với ông Mô-sê : xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!" (Xh 21,19)

Và ngay trong Tân Ước ta cũng thấy có trường hợp dân chúng kính sợ quyền năng của Đức Giêsu và xin Ngài rời xa họ :

"Bấy giờ, cả thành ra đón Đức Giêsu, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ". (Mt 8,34)

 Một vài trích dẫn như trên, ít ra, cũng cho chúng ta thoáng thấy một vấn đề, nếu không phải là một thách đố hay một nguy cơ ngay trong chính thái độ hiếu kính thường tình của con người đối với Thiên Chúa. Liệu chừng một thái độ “thường tình” như thế có thể hoàn toàn thích hợp với tâm tình Kitô giáo không ? Liệu chừng nhiệm cục cứu độ “khác thường” và siêu nhiên của Thiên Chúa có bao hàm một tâm tình vượt trên hoặc làm trọn vẹn hơn tâm tình hiếu kính bình thường của con người trước Thiên Chúa không ?     


2. NHIỆM CỤC CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA

2.1 Cung cách sống của Đức Giêsu Kitô

 Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã thể hiện một cung cách khác hẳn với Cựu Ước. Đức Giêsu Kitô sống như một người bình thường giữa bà con láng giềng tại Na-gia-rét. Trong sứ vụ công khai, Ngài kêu gọi những người bình thường làm môn đệ, Ngài cảm thông với những người tội lỗi, Ngài đụng chạm tới những người ô uế, Ngài nói chuyện với phụ nữ, Ngài ăn uống với những người thu thuế, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi đụng chạm tới, Ngài ở trọ trong nhà người thu thuế …

 Toàn bộ đời sống của Đức Giêsu là một cuộc đời của một người bình thường, ở giữa những người tầm thường, và đụng chạm được những khổ đau thường tình của kiếp người.

 Hơn nữa, cung cách ấy không phải chỉ là lòng thương hại, mà còn là một sự xác nhận và lòng trân trọng phẩm giá cao quí của những người bé mọn bình thường ấy:

"Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong nhưng kẻ bé mọn này; quả thật, thầy nói cho anh em biết : các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 18, 10; Xc. Mc 9, 37; Mt 25,31-46)

Tuy nhiên, thời Chúa Giêsu, nhiều người không muốn đón nhận một Đấng Mê-si-a với tính cách bình thường, mà họ cho là tầm thường : dân chúng tại Na-gia-rét không chấp nhận một Đấng Mê-si-a có sinh hoạt bình thường ở giữa họ; Gioan Tẩy Giả sốt ruột vì chưa thấy Đức Giêsu làm những chuyện kinh thiên động địa như ông loan báo; những người Biệt phái phản đối thái độ Đức Giêsu ăn uống với người tội lỗi, để cho người đàn bà tội lỗi đụng vào người mình; các môn đệ ngạc nhiên vì Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri, các ông đuổi những đứa trẻ đến với Chúa Giêsu… Phải chăng đó cũng là vì quan niệm cho rằng Thiên Chúa và những người thuộc về Thiên Chúa thì phải cao xa ?

 Ngược lại, một cách nào đó, chúng ta có thể nói rằng, từ cung cách sống “lê la” với những người nghèo, cũng như việc xác nhận phẩm giá của những người bé mọn, Chúa Giêsu hiểu ra con đường cứu độ của Thiên Chúa Cha. Từ giữa cuộc sống với những người bình thường ấy, Chúa Giêsu mới bật lên được tiếng reo mừng khi nhận ra rằng “tấm lòng” của Chúa Cha, người Cha muốn tìm phương cách cứu độ cho mọi đứa con của mình, đặc biệt là những đứa con bé mọn và gánh nặng :

"Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết nhưng điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Xc. Lc 10,21-22).


2.2 Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô

Thời Chúa Giêsu, có một số đông những người Do thái bị loại bỏ, bị gạt ra ngoài lề xã hội dân sự và tôn giáo, một thứ tôn giáo theo tiêu chuẩn của người Biệt phái (giữ lề luật tỉ mỉ) hoặc theo tiêu chuẩn của người Sa-du-cê-ô (nghèo hèn là do tội lỗi). Họ lầm than trong cuộc sống trần thế, đồng thời lại thất vọng về ơn cứu độ của Thiên Chúa. Họ cảm thấy bị trói buộc trong một hoàn cảnh bi đát, một vòng luẩn quẩn mà không thể nào thoát ra được.

Chúa Giêsu chọn lựa đường lối cứu độ có khả năng mời gọi những người ở cùng đáy xã hội, những người không có thể hoàn thành vận mạng cuộc đời bằng khả năng của mình. Ta có thể thấy rõ ràng Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu không phải là con đường dành riêng cho những người ưu tuyển, nhưng là con đường ưu ái dành cho những người nghèo. Ngài xác nhận sứ mệnh đó từ Thần Khí Thiên Chúa :

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người sai tôi đi công bố
Cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,
Cho người mù biết họ được sáng mắt,
Trả lại tự do cho người bị áp bức,
Công bố một năm hồng ân của Chúa”
(Lc 4,18-19)

Và Ngài đã khẳng định chọn lựa của Ngài một cách hết sức rõ ràng :

"... người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa câu này : Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi"" (Mt 9,12-13; Xc. Lc 4, 18).

 Với sứ mệnh và chọn lựa ấy, đức Giêsu trở nên mục tử đi tìm con chiên lạc và tìm đựơc rồi thì vác lên vai (xc. Lc 15,4-7); Ngài tìm tòi người tội lỗi như người bà đau lòng vì bị mất đồng bạc (xc. Lc 15,8-10); Ngài như người cha ngóng chờ đứa con trở về (xc. Lc 15,11-32)…

 Trong khi những người biệt phái là những người luôn bảo vệ vinh quang Thiên Chúa, thì chính Chúa Giêsu lại luôn đứng về phe con người, những người nghèo hèn, bé mọn. Nỗi bận tâm của Ngài không phải là “bảo vệ” Thiên Chúa nhưng là làm sao để những người bé mọn được sống dồi dào. Do đó, sau bao cuộc tranh luận, để trả lời cho thắc mắc ám ảnh mãi của người Do Thái : “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ?” (Ga 10,24), luận cứ cuối cùng của Đức Giêsu cũng chỉ là

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi : tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời…” (Ga 10, 27-28).        

 Ta có thể thấy rõ Tin Mừng của Đức Giêsu là Tin Mừng về một Thiên Chúa từ bi thương xót chứ không phải là một Thiên Chúa oai phong.


2.3 Nhiệm cục Cứu độ trong đức Giêsu Kitô

Nếu Thiên Chúa chỉ muốn ban cho ta những ơn huệ thông thường như sức khoẻ, may lành, làm ăn phát tài… chắc chắn Ngài không cần cho Con của Ngài xuống thế làm người. Nhưng Thiên Chúa ban cho chúng ta chính Con của Ngài; ý nghĩa đích thực của “món quà” ấy không thể bị giản lược vào một hồng ân vụn vặt nào, nhưng chỉ có thể là chính Thiên Chúa trở nên người Bạn, người Anh, Đấng có thể liên đới trách nhiệm và chia sẻ mọi vui buồn của cuộc sống với con người.

Thiên Chúa của nhiệm cục Tân Ước đã khởi đầu giai đoạn mới bằng việc tỏ mình ra là một hài nhi bé bỏng trong hang đá (xc. Lc 2,1-20); Ngài đi vào sứ vụ công khai bằng đường lối hoà mình vào đám tội nhân trong giòng sông Giô-đan (xc. Mt 3, 13-17)…; và cuối cùng, trong mầu nhiệm thập giá, Ngài thể hiện trọn vẹn sứ mệnh cứu độ như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, chấp nhận thối đi để trổ sinh những bông hạt phong phú cho con người (xc. Ga 12, 24-25).

Nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa là con đường “hạ giáng” để trở nên tầm thường, nên tội luỵ, chứ không phải con đường khẳng định vị thế vinh quang :

“Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21; xc.Gl 3,13; Cl 2,14).

 Chính khi trở nên tầm thường và tội luỵ, Thiên Chúa có thể gặp gỡ và liên đới với thân phận tội luỵ của con người để cứu độ con người :

“Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2, 17).

Đức Giêsu muốn gọi các tông đồ là bạn hữu, không phải là nô lệ (xc. Ga 15,15a); nhờ đó, các tông đồ mới được thông chia những gì thâm sâu nhất trong gia đình Ba Ngôi : “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết" (Ga 15,15b). Đức Đó chính là cách thức cứu độ bằng sự liên đới trách nhiệm và đồng hành chứ không phải bằng cách “bố thí”, “phát chẩn”. Cách thức cứu độ ấy liên lụy sâu xa đến chính bản thân Ngài; Ngài trở thành người trong cuộc, chứ không phải chỉ là một sự trợ giúp như là ban bố những của “dư thừa”. Ý nghĩa đó được thánh Phaolô diễn tả trong mầu nhiệm “tự hủy” của Thiên Chúa :

"... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (xc. Pl 2, 6-7 tt).

Như thế, tấm lòng âu yếm của Thiên Chúa đối với những người nghèo hèn không phải chỉ được diễn tả như một chút ủi an, như chỉ dạy một con đường luân lý, nhưng còn là một Đấng cùng chung chia phiền luỵ của phận người. Chính cách thức ấy mới có thể đưa ơn cứu độ đến tầm tay những người nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, trộm cướp, tội lỗi. Ngài mời gọi họ tin vào Ngài, thế thôi ! Tin ở đây dĩ nhiên không phải chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng là gắn bó, đi theo, liên đới, hay để cho Thiên Chúa tỏ bày sức mạnh giải thoát của Ngài cho mình. Ngài muốn giơ tay để những ai tin tưởng nơi Ngài có thể “móc nghéo”, “bắt tay” và giao ước với họ trong một giao ước ngôi vị, tạo nên một “cộng đồng ngôi vị”.

Cách thức ấy thể hiện nhiệm cục cứu độ trong lòng tôn trọng phẩm giá của phía đối tác; Ngài không cứu độ con người bằng cách biến con người thành một “lũ ăn mày”[2], nhưng mời gọi con người trở nên những người bạn và người em của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Giêsu trở nên Bạn Đồng Hành để san sẻ vui buồn.

Rồi Ngài còn trở nên “Trưởng Tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29); Ngài là “Anh Hai”, “Đại ca” để liên đới trách nhiệm với con người, đặc biệt với những người bé mọn, trên bước đường đời,

“Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do chung một nguồn gốc. Vì thế, Ngài đã không hổ thẹn gọi họ là anh em... “ (Dt 2, 11)

Nhiệm cục ấy chẳng những giúp con người vượt thắng được tội lỗi, hoá giải được sự hủy hoại của tính ích kỷ, hàn gắn những đổ vỡ do sự ghen ghét gây ra, nhưng còn làm cho phẩm giá con người được trở nên thành toàn. Chỉ bằng cách nâng cao phẩm giá con người như thế, người môn đệ Chúa mới có thể xứng đáng với Thần Khí Nghĩa Tử của Đức Giêsu để có thể kêu lên một cách đúng nghĩa và chân thật “Abba, Cha ơi !” :

“Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên : “Áp–ba ! Cha ơi !” (Rm 8, 14-15)

Thực sự, đỉnh cao của nhiệm cục cứu độ không phải chỉ là con người được rỗi linh hồn, theo nghĩa được lên thiên đàng để sung sướng một cách tầm thường, nhưng là được gia nhập vào gia đình Ba Ngôi để sống cao cả trong hạnh phúc của tình thương. Chính nhiệm cục tự huỷ như thế mới thực sự công bố tình thương của một Thiên Chúa cao cả.

***

Thiên Chúa là Đấng Thánh, và “thánh” có nghĩa là tách biệt, siêu việt. Những ý nghĩa ấy mới chỉ diễn tả một nửa Kitô giáo. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa còn thể hiện sự thánh thiện của Ngài bằng sự liên lụy với con người, chia sẻ phận người và chịu chết cho con người. Chính qua quá trình “tự hủy” ấy, Đức Giêsu lãnh nhận danh hiệu “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (xc. Pl 2, 1-11). Ta có thể thấy nét khác biệt nổi bật giữa Cựu Ước và Tân Ước : từ một Thiên Chúa oai phong, đến một Thiên Chúa thân tình; từ một Thiên Chúa là vua đến một Thiên Chúa là Cha[3]. Nét khác biệt ấy không phải là điều tùy phụ, nhưng là biểu hiện sự tiến triển căn bản của nhiệm cục cứu độ. Như thế, ta cũng có thể nói rằng sự khác biệt của tâm tình sống đạo giữa "kính sợ" và "thân tình", có lẽ, cũng không phải là điều tùy phụ nhưng phải là sự thay đổi tâm tình căn bản của nhiệm cục cứu độ từ Cựu Ước sang Tân Ước.


3. ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU

Đức Giêsu đã sống cung cách “xuề xoà” để đến với những người tầm thường, Đức Giêsu đã muốn đem Tin Mừng cho những người bị loại trừ, và nhiệm cục cứu độ trong Đức Giêsu là con đường tự huỷ để nên Bạn và “Anh Hai” của con người. Tất cả những nét cao quí ấy có nguy cơ bị che mờ hay bị đánh mất hẳn trong một thứ đạo hiếu kính. Hình ảnh Đức Giêsu trong Giáo hội Công giáo Việt Nam không còn dễ gần nữa; đạo của Chúa hiện nay những người nghèo hèn không dễ gì sống được; và nhiệm cục cứu độ của đức Giêsu hiện nay không còn giúp người tín hữu tìm thấy Người Bạn và người Anh nữa. Có một thứ hào quang giả tạo che khuất ánh sáng chân thật của nhiệm cục cứu độ; có nhiều lớp áo trang trọng làm cho bản thân đức Giêsu không còn bộc lộ được “nét duyên tươi” đối với con người ngày nay nữa; nét cao quí của “hạt lúa dám thối đi” đã bị sửa lại thành một bông hoa rực rỡ cao cả !

Thái độ hiếu kính như thế thể hiện cả trong mối tương quan với Thiên Chúa, mẹ Maria và các thánh cũng như trong tổ chức Giáo hội.


3.1 Nguyên lý danh dự trong đời sống đức Tin

Nguyên lý danh dự không phải chỉ là chuyện của Giáo hội Việt Nam, nhưng là vấn đề muôn thuở của nhân loại và là nguyên lý ăn rễ sâu xa trong tâm thức Giáo hội. Theo nguyên lý này, tất cả giá trị của Thiên Chúa được giản lược vào nét cao sang, uy quyền; đối diện với Thiên Chúa, tất cả thân phận con người chỉ là hèn mọn và có nghĩa vụ tôn vinh nét cao sang uy quyền của Chúa. Rồi từ công thức danh dự ấy, người ta áp dụng vào mọi lãnh vực để lý giải ý nghĩa : các mầu nhiệm, các nguyên tắc tín lý và luân lý, các ngôn từ phụng vụ, con đường tu đức …, và đặc biệt trong vấn đề tội lỗi. Chúng ta có thể chọn một thí dụ trong vấn đề cứu độ học[4].

Nói chung, trong thiên niên kỷ thứ nhất, cái nhìn cứu độ học của các giáo phụ có chiều hướng “hạ giáng”, nghĩa là Đức Giêsu hóa thân làm người, chia sẻ kiếp người, chịu khổ lụy và chịu chết vì con người. Trong thiên niên kỷ thứ hai, với những khuynh hướng luật pháp thời đầu kinh viện, cái nhìn cứu độ học của các nhà thần học có khuynh hướng “thượng thăng”, nghĩa là Chúa Giêsu chịu chết để đền bù tội lỗi xúc phạm đến uy danh cao cả của Chúa. Lối nhìn này thể hiện rõ nét nơi quan niệm cứu chuộc của thánh An-sen-mô. Lối cắt nghĩa theo nguyên lý danh dự ấy đã biến mầu nhiệm cứu độ thành một gánh nặng đè xuống lương tâm người Kitô hữu suốt bao thế kỷ. Ngày nay, các nhà thần học đã thấy có nhiều trục trặc, cả về phương diện Thánh Kinh lẫn phương diện thần học, trong cách lý giải của thánh An-sen-mô[5] và nhận thấy cần phải trở về với chiều hướng “hạ giáng” ban đầu.

Cũng thế, ta có thể thấy nhiều mầu nhiệm cứu độ được trình bầy theo hướng danh giá, nhằm ca tụng vẻ cao sang, siêu vời hơn là biểu lộ nhiệm cục cứu độ “hạ giáng” của Thiên Chúa. Chẳng hạn trong bí tích Thánh Thể, thay vì trình bầy một Đức Giêsu "động lòng trắc ẩn", Ngài không tự bằng lòng với phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân trong cơn đói, Ngài còn muốn nuôi đời sống dân bằng "bánh" thân thiết và trọn vẹn hơn, có khả năng đón nhận mọi vui buồn sướng khổ của con người, đó là chính bản thân Ngài trong bí tích Thánh Thể … thì nhiều người lại thường quảng diễn bí tích ấy theo nguyên lý danh dự, để chỉ thấy một Thiên Chúa cao sang, một bí tích cực trọng… Lối trình bày ấy làm cho người Kitô hữu phải lo sợ nhiều hơn là được an ủi trước Thánh Thể Chúa.

Không ai phủ nhận vị thế cao sang uy quyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên, khi quảng diễn đời sống đức Tin theo nguyên lý danh dự, chúng ta nhận thấy man mác hình ảnh một Thiên Chúa quá quan trọng hóa bản thân Ngài hơn là một Thiên Chúa tự hiến vì yêu thương; man mác những thứ “tội khi quân”, một thứ tội mà não trạng con người ngày nay khó có thể chấp nhận được[6].

Mặt khác, nếu chỉ với nguyên lý danh dự như thế, làm sao chúng ta có thể hiểu được tình yêu Thiên Chúa thể hiện trong một đức Kitô thường động lòng trắc ẩn, tìm mọi cách để cứu con người, tha thiết với những người tội lỗi ? Nhất là làm sao chúng ta có thể cảm được nét cao quí của hạt lúa mì, thối đi để trổ sinh những bông hạt khác ?

Chính ở đây, ta hiểu rõ hơn nghĩa “vinh quang” trong tiếng Do Thái. Trong khi ý nghĩa từ "vinh quang" theo tinh thần Hy Lạp có nghĩa là được đánh giá; thì ý nghĩa vinh quang trong tinh thần Do Thái lại là sức nặng, là thực chất được thể hiện trọn vẹn [7]. Theo ý nghĩa ấy, Thiên Chúa vinh quang, trước tiên, không phải là Thiên Chúa được ca tụng, nhưng là một Thiên Chúa yêu thương con người đến cùng. Thánh Irênê đã diễn tả điều ấy cách tuyệt hảo : Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống. Chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu thể hiện sứ mệnh của Ngài, đồng thời diễn tả vinh quang Thiên Chúa, theo ý nghĩa như thế, đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Vinh quang của Ngài lại không phải là gì khác hơn chính cái chết tủi nhục :

“Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói : Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người" (Ga 13, 31; Xc. 12,28, 17,1).


3.2 Không theo kịp tiến trình nhiệm cục cứu độ

Với tấm lòng hiếu kính, người Kitô hữu thường thích đặt Chúa Giêsu lên bàn thờ hơn là tìm thấy nơi Ngài một sự liên đới, đồng hành. Món quà của Thiên Chúa Cha, là Đức Giêsu Kitô, được ban như người Anh Cả, người Bạn, món quà ấy cũng thường bị đẩy lên cao để tôn Ngài làm “Cha”. Việc xưng hô với Chúa Giêsu trong ngôn ngữ quá tế nhị của tiếng Việt quả là khó khăn. Ở đây, tôi không muốn nói đến vấn đề ngôn ngữ cho bằng là phẩm chất của mối tương quan. Việc tôn Đức Giêsu là "Cha" không phải là chuyện nhỏ, nhưng là bỏ quên điều chính yếu trong nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa : khi tôn đức Giêsu làm “cha”, làm sao ta có thể đón nhận “Thần Khí Nghĩa Tử” của Ngài để “cùng thừa tự” với Ngài và gọi được Chúa Cha là “Abba, Cha ơi !” ? Làm sao người Kitô hữu có thể tìm gặp Đức Giêsu Kitô trong nghĩa bằng hữu, trong tình huynh đệ, để có thể sống với Ngài như một người liên đới trách nhiệm, gánh lấy tội lụy cuộc đời ?

Thái độ ấy kéo theo những hệ quả mục vụ : người tín hữu dễ thấy trách nhiệm với Chúa, nhưng khó lòng thấy được tình thương của Ngài; kính phục Ngài chứ ít cảm nhận được sự gắn bó, sự hy sinh của Ngài dành cho mình, ngay trong lỗi lầm của mình… Thái độ hiếu kính khiến người ta sống đạo theo kiểu nếu ta làm được điều gì tốt thì mang trình với Chúa, còn điều gì khó khăn thì ta ráng chịu lấy một mình, xoay sở một mình.

Nguyên lý danh dự cũng được áp dụng vào lòng hiếu kính đối với mẹ Maria, các thánh, cũng như những người "đại diện cho Chúa". Chính vì thế, người tín hữu ít sống được ý nghĩa mầu nhiệm "các thánh cùng thông công", nghĩa là nhận ra những ơn lành Chúa ban cho Đức Mẹ, các thánh, cũng chính là, và trước tiên là gia sản Chúa ban chung cho Giáo hội, trong đó có mỗi người chúng ta. Tất cả hồng ân của Chúa đều là hồng ân ban cho Giáo hội, qua mẹ Maria và các thánh, để mọi người Kitô được hiệp thông trong cộng đoàn các phúc nhân. Thay cho tâm tình hiệp thông trong Giáo hội và tạ ơn Chúa như thế, người tín hữu cầu xin những ơn lành như thể những ơn ấy là của riêng các ngài; do đó phải tôn các ngài lên cao hơn và nhìn nhận bản thân mình như những người “ăn mày các ơn phúc”.

Tâm tình hiếu kính vẫn luôn có giá trị và lợi ích. Tuy nhiên, trong nhiệm cục Tân Ước, thái độ ấy "cần" mà không "đủ". Thái độ hiếu kính luôn dễ dàng đi quá để rơi vào tình trạng "kinh nhi viễn chi", và có nguy cơ bỏ mất điều căn bản hơn : không theo kịp với nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.


3.3 Chiều hướng danh giá trong sinh hoạt Giáo hội

Nguyên lý danh dự đương nhiên kéo theo và làm gia tăng chiều hướng danh giá. Rồi chiều hướng danh giá lại được phát triển mạnh trong một Giáo hội sinh hoạt, làm nẩy sinh thêm nhiều thứ bậc, nhiều nghi thức, nhiều nguyên tắc rườm rà không có ý nghĩa chức năng mà chỉ có ý nghĩa danh giá...

Hơn nữa, chiều hướng danh giá lại gặp được đất sống “mầu mỡ” trong tinh thần phong kiến của dân Việt vốn rất đề cao danh giá, “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, để trổ sinh thành những khuôn phép “truyền thống” trong đời sống đức Tin : chỗ trên chỗ dưới, danh hiệu lớn danh hiệu nhỏ, công đức nhiều công đức ít : đón tiếp đức cha phải nói “Trọng kính Đức Cha”; lãnh sứ vụ điều khiển cộng đoàn thì được gọi là “bề trên”; lãnh tác vụ linh mục hay khấn dòng thì gia đình được nở mặt nở mày; cha mẹ được gọi là “ông bà cố” để khuyến khích ơn gọi; các ông trùm ông chánh được chỗ ngồi ưu tiên; các chức vụ được “nối dài” ra thành “nguyên bề trên”, “cựu trùm” …

Tại nhiều nơi, trong một số giáo phận, đời sống đạo được phát triển theo chiều hướng lễ lạc long trọng; nhiều sáng tạo trong câu kinh tiếng hát, lễ nghi rước sách, cung giọng lên xuống, kèn trống cờ quạt ... chủ yếu chỉ để thêm long trọng chứ không phải để công bố ơn Cứu độ và nuôi dưỡng đời sống đức Tin của người tín hữu. Ngay cả thực tại đầy ý nghĩa cứu độ như Thánh lễ, nhiều khi, cũng chỉ được diễn tả và cảm nhận theo chiều kích danh giá : thánh lễ đồng tế long trọng; sự hiện diện của các đấng bậc mang lại vinh dự cho giáo xứ, cho gia đình; những nghi thức trang trọng ... .

Thái độ quá tôn kính các "đấng bậc" trong Hội Thánh khiến cho mối tương quan giữa mục tử và đoàn chiên càng ngày càng xa cách; và nhất là làm cho Giáo hội phẩm trật, tức chiều kích Giáo hội Thân Mình Chúa Kitô[8], không còn là Giáo hội tôi tớ theo mẫu gương của thầy Giêsu :

“Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với người phục vụ, ai lớn hơn ai ? Hẳn là người ngồi ăn chứ? thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27)[9].

Bất cứ một tổ chức xã hội hay cộng đoàn nào cũng phải có lễ nghi, đó là lẽ thường tình của đời sống con người và không ai có thể chối bỏ. Tuy nhiên, trong nhiệm cục Cứu độ Kitô giáo, chiều hướng danh giá, nối kết với một Giáo hội sinh hoạt, có nhiều nguy cơ che lấp tình thương hạ giáng của Thiên Chúa trong Đức Kitô.


3.4 Bệnh sợ

Sinh ra làm người với một khả năng dòn mỏng, với một bản chất chưa hoàn thành, con người mang lấy muôn vàn nỗi sợ : sợ thiên nhiên, sợ người khác, sợ chính mình. Đó là thực trạng “tự nhiên” của con người. Dù có tính cách tiêu cực, nỗi sợ đôi khi cũng có nhiều lợi ích, giúp con người tránh được những liều lĩnh quá đáng và sự phóng túng vô độ. Tuy thế, nỗi sợ cũng là căn nguyên của rất nhiều cách sống lệch lạc, phá hủy phẩm chất nhân sinh : dối trá, luồn lách, phòng vệ, giả hình, so đo tính toán… nhất là khi nỗi sợ ấy lại là nỗi sợ trước Thượng Đế. Khi Thượng Đế xuất hiện như một Đấng thâu tóm mọi quyền lực khác, Ngài biến nỗi sợ của con người trở thành vô biên, nỗi sợ vượt mọi không gian và thời gian, nỗi sợ len lỏi vào từng chi tiết của cuộc sống. Nỗi sợ Thượng Đế là nỗi sợ khủng khiếp nhất !

  Nhiều vị hữu trách trong Giáo hội đã dùng “thuốc sợ”, áp dụng theo nguyên lý danh dự, để “ chữa bệnh” tâm hồn và bài thuốc này dĩ nhiên cũng đạt được nhiều thành quả. Tuy nhiên, với tình hình hiện này, có lẽ thuốc sợ đã được dùng quá liều, gây nên những phản ứng phụ đáng tiếc. Bệnh sợ đưa đến thái độ giữ đạo hình thức và tính toán hơn thiệt đối với Chúa. Bệnh sợ cũng làm thui chột năng lực của con người :

“Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói : Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy !” (Mt 25, 24-25)

Người linh mục thường sợ người giáo dân "gần chùa gọi bụt bằng anh", hoặc sợ tình trạng "cá đối bằng đầu" mà không thấy một tình trạng còn đáng sợ hơn : giáo dân sợ linh mục. Người giáo dân không dám tiếp chuyện bình đẳng với linh mục; người tu sĩ phải “uốn lưỡi bẩy lần”, lượn qua lượn lại mấy vòng trước cửa phòng bề trên rồi mới dám thỏ thẻ thưa trình… Tình trạng ấy làm cho mối tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không còn thông thoáng, người lãnh đạo dễ trở thành một cán bộ thời bao cấp : áp dụng cơ chế xin cho, ban phát theo ý thích của mình chứ không phải theo nhu cầu giáo dân và không chấp nhận được những trường hợp ra ngoài qui luật chung…

Đức Giêsu thâu tóm nỗi sợ về cho Thiên Chúa ”Vậy anh em đừng sợ người ta ... Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác” (Mt 10, 26.28), nhưng không phải để gia trọng thêm nỗi sợ mà là để giải thoát môn đệ khỏi nỗi sợ, nhờ phẩm giá cao quí mà Thiên Chúa ban cho : “Vậy, anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,31).

Thánh Gioan khẳng định chân lý ấy như sau :

"Trong tình yêu không có sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (1 Ga 4,18).


3.5 Đánh mất sự tự do của con cái Chúa [10]

Trong đời sống Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay, sự tự do của con cái Chúa đã gần như đã biến mất. Một số nhỏ tín hữu mắc bệnh bối rối, nhìn đâu cũng thấy tội; một số đông hơn giữ luật một cách hình thức, tin cậy một cách máy móc vào các nghi thức, vào những phương cách kiếm được ơn phúc mà không để ý đến tấm lòng thành; phần lớn các tín hữu Công giáo Việt Nam sống đạo như một khuôn khổ phải chấp nhận chứ không phải là niềm vui được là con cái Chúa và thể hiện trách nhiệm của mình với cộng đoàn Giáo hội.

Trong đời sống đạo, người tín hữu không được giành cho một khoảng tự do nào để có thể nhận định bằng suy tư của mình, để sáng tạo thái độ trung tín của mình với Chúa, để sống với Chúa bằng chính cá tính và hoàn cảnh riêng của mình : từ chuyện kiêng thịt, ăn chay cho đến câu kinh lời nguyện trong sinh hoạt phượng tự, lễ bái; từ thái độ ứng xử của niềm tin trong cuộc sống hằng ngày cho đến cung cách thể hiện trong nhà thờ. Mọi sự đều được qui định sít sao. Không lạ gì khi người tín hữu Việt Nam chỉ biết đọc kinh mà không biết cầu nguyện, không sống nổi những giây phút thinh lặng vắn vỏi[11] và phải lấp đầy bằng một sinh hoạt nào đó.

Những điều ấy làm cho người Kitô hữu sống đạo dúm dó như một kẻ nô lệ, đành phải tính toán chi li tội phúc, đành chọn thái độ nhắm mắt chu toàn lề luật để bảo đảm an toàn...

Nỗi sợ giết chết tự do; và không có tự do, con người không còn sống xứng đáng phẩm giá làm người, nhất là phẩm giá những người con cái tự do của Thiên Chúa[12]. Thật là sỉ nhục cho một đất nước tự do dân chủ khi mà những người dân phải giải quyết những vấn đề bình thường của mình bằng đủ thứ “chui” ! Cũng thế, thật là sỉ nhục cho Giáo hội Chúa Kitô khi mà người tín hữu sống sợ hãi, dúm dó trước mặt Chúa; giáo dân sợ hãi, dúm dó trước các đấng bậc; các tu sĩ sợ hãi, dúm dó trước các vị có trách nhiệm !

Trong khi đó, đỉnh cao của ơn cứu độ chính là Thiên Chúa cho con người được trở nên con cái, được đồng thừa tự với Đức Kitô. Phẩm giá ấy phải làm cho người Kitô hữu được sống hiên ngang như con cái tự do của Thiên Chúa :

“Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên : ‘Áp-ba ! Cha ơi ! chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô…” (Rm 8, 14-17)


KẾT

Mầu nhiệm “tự huỷ” vẫn là một thách đố của tâm trí con người mọi nơi mọi thời. Tất cả những người cùng thời với Chúa Giêsu, từ Gioan Tẩy gỉa, các tông đồ, cho đến những người thuộc giới lãnh đạo, đều không hiểu được mầu nhiệm này : Đấng Mê-si-a phải chịu khổ hình, đó là một sự điên rồ đối với người Hy Lạp và chướng kỳ đối với những người Do Thái (x. 1 Cr 1, 17-25).

“Phần anh em, hãy lắng nghe cho kỹ những lời sau đây : Con Người sắp bị nộp vào tay người đời. Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông lời đó còn bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa” (Lc 9,44-45 và //)

Mầu nhiệm ấy có lẽ cũng không “dễ sống” đối với Giáo hội, với những người Kitô hữu hiện nay. Khi nào Thiên Chúa trong đức Giêsu Kitô còn cao xa, Tin Mừng của Ngài còn khó thực hiện và người ta không để cho Ngài nên Bạn Hữu, nên “Anh Hai”, thì “lời đó còn bí ẩn”.

Một gia đình đạo đức mời cha xứ đến ăn cơm. Trong khi cha xứ đã ngồi vào bàn thì cả nhà vẫn còn ở dưới bếp, đùn đẩy nhau để có được một người “hân hạnh” được ngồi tiếp cha. Chỉ sau khi cha ra về, thì cả nhà mới ùa lên để cụng ly, lòng hỉ hả vì đã thực hiện được một việc hiếu kính, đã thể hiện mình như một con chiên ngoan.

Thái độ hiếu kính như thế không phải là xấu nhưng có lẽ đã bỏ mất một điều lớn hơn : cha xứ cần nói chuyện với mọi người trong nhà, để hiểu và chia sẻ nếp sống gia đình hơn là một bữa ăn ngon.

Thiên Chúa cứu độ con người bằng cách làm triển nở bản tính tự nhiên mà Ngài đã ghi khắc trong tâm khảm con người : khi còn nhỏ, em bé cần cha mẹ, cần người cầm tay dẫn dắt từng bước; lớn lên một chút, chú bé cần được chỉ dẫn, nhưng chú bé cũng phải biết tự quyết nhiều điều; rồi khi trưởng thành, người thanh niên cần phải có khả năng tự chủ và tự quyết định cuộc đời mình, anh thanh niên cần tới tình bạn và tình nghĩa vợ chồng, chứ không phải mãi mãi ẩn núp dưới gấu áo mẹ. Do vậy, khi con cái đã lớn, người cha/mẹ lý tưởng chính là người vừa là cha/ mẹ, vừa là bạn với con cái. Tình nghĩa vợ chồng cũng thế, lý tưởng nhất là hai người vừa là vợ chồng, vừa là bạn…Thiên Chúa không muốn cứu độ con người bằng cách giữ mãi con người trong tình trạng trẻ con, nhưng cho con người được trưởng thành, Ngài muốn nâng cao tối đa phẩm giá con người.

Chính vì bỏ quên nhiệm cục cứu độ Tân Ước như thế, người Kitô hữu sống đạo cách nặng nề, ì ạch; không mấy khi tìm thấy niềm vui vì được Chúa cứu độ mà chỉ cố gắng được an tâm vì đã chu toàn nghĩa vụ với Chúa. Thái độ hiếu kính, tự nó, là một điều tốt nhưng không phải là nhân đức tột đỉnh. Người Kitô hữu được mời gọi để vươn đến đời sống thân tình. Chị Mác-ta được Giáo hội “tôn phong” lên hàng hiển thánh; chúng ta cũng trân trọng biết bao đối với những những người có đầy lòng hiếu kính đối với Chúa, với những người có trách nhiệm. Nhưng chị Mác-ta còn được Chúa Giêsu thân ái mời gọi vượt qua thái độ hiếu kính để đạt đến mức độ thân tình :

“Mác-ta ! Mác-ta ơi ! Chị lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá ! Chỉ có một chuyện cần thiết thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,41-42).

Người Kitô hữu Việt Nam quả là những Mác-ta!

Thật sự chỉ có nhiệm cục cứu độ Trong đức Giêsu Kitô mới thực hiện được nét cứu độ cao quí tuyệt diệu : một phương cách cứu độ không hạ thấp phẩm giá con người; và chỉ có cách thức ấy mới có thể trả lời cho những phương thức “không cần đến tha lực”, trả lời cho những lời phê phán nhân bản về một thứ vong thân của con người trước Thượng Đế.

Minh Sư bảo một đệ tử suốt đời cầu nguyện : - Chừng nào con mới thôi nương tựa vào Thượng Đế ? Chừng nào con mới vỗ cánh tung bay ?

Những lời đó làm đệ tử sửng sốt nên nói : - Nhưng chính thầy đã dạy chúng con xem Thượng Đế là cha !

- Chừng nào con mới hiểu được rằng người cha không phải là một kẻ để chúng ta nương tựa mà là một kẻ giúp đỡ chúng ta bỏ tật xấu đó.

         Anthony de Mello, Như Tiếng Chim Hót, trang 299


 


[1] Nhiều chỗ trong bài này phải hiểu là thái độ “kính sợ”. Tuy nhiên, trong nhiệm cục cứu độ, ngay cả thái độ “hiếu kính” thuần túy có lẽ cũng không đủ để thể hiện tâm tình người Kitô hữu được làm bạn và làm em đối với đức Giêsu.

[2] Ở đây chỉ muốn nói về một cung cách xin sỏ, không nhằm những người nghèo.

[3] Cựu ước có đôi lần gọi Thiên Chúa là Cha (Xc. Xh 4,22; Kn 2,13.16; 14,16; Hs 11,1; Is 1,2; Gr 31,9). Nói chung, người Do Thái không dám gọi Thiên Chúa là Cha trong lời cầu nguyện. Thỉnh thoảng họ có gọi “Cha”, nhưng lại phải thêm ngay tiếng “Chúa” để khỏi bất kính (Kn 14,3; Hc 23,1.4; 51,10). Trong khi đó, tước hiệu “Cha” xuất hiện phong phú lạ thường trong Tân Ước (05 lần trong Marco; 17 lần trong Luca; 45 lần trong Matthêu; 118 lần trong Gioan, và rât thường xuyên trong Phaolô). Tân Ước còn ghi lại từ ngữ Aram như một diễn ngữ đặc biệt và quen thuộc Abba. Có nhiều bằng chứng minh xác các Kitô hữu đầu tiên đã dùng từ ngữ Abba để gọi Thiên Chúa. Cuối cùng, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu một cung cách gọi “Cha” riêng biệt, đơn thuần chứ không phải chỉ là một từ ngữ ẩn dụ (Xc. Mc 14,36; Lc 23,34; Lc 23,46; Mt 11, 25-26. . . ).

[4] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, 2003, bài “Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu độ chúng ta”.

[5] Xc. Chẳng hạn : Gomez S.J. Kitô học [phần II), Lớp Liên dòng Mến Thánh Giá t/p Hồ Chí Minh, 2001; Noberto, Kitô Học II; Noberto, Kitô Học 16 đề tài, 1997, tài liệu hướng về Năm Thánh; Kim Thao, Thời Sự Thần Học 1, bài “Thần học Cứu độ”, trang 37-42.

[6] Chẳng hạn các sách Giáo lý thường quảng diễn việc vi phạm điều răn thứ nhất thành những tội chia trí, ngủ gật, …; và ngay cả, một cách nào đó, việc phân biệt cứng nhắc về bí tích kẻ sống và bí tích kẻ chết…

[7] Xc. Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh, từ "vinh quang" : “Trong Thánh Kinh Do Thái, tiếng Kabôd có nghĩa là vinh quang và còn bao hàm một ý nghĩa khác là trọng lượng giá trị. Giá trị của một hữu thể trong cuộc sống xác định tầm quan trọng, uy tín và vinh quang của hữu thể ấy. Như thế, đối với tiếng Do thái, khác với tiếng Hy lạp, danh từ vinh quang không nói đến danh tiếng cho bằng nói lên giá trị đích thực, được thẩm định theo trọng lượng”.

[8] Trong Công Đồng Vatican II, Giáo hội được nhìn theo khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi, lối nhìn này được thần học triển khai với những ý nghĩa như sau : “Giáo hội Chúa Cha” được thể hiện như “Dân Thiên Chúa”, trong đó mọi người được qui tụ và đều bình đẳng; “Giáo hội Chúa Giêsu” được thể hiện như “Giáo hội Thân Mình Chúa Kitô”, trong đó có phẩm trật Giáo hội; và “Giáo hội Chúa Thánh Thần”, thể hiện như “Đền Thờ Chúa Thánh Thần”, nơi đó, mọi thành phần được tác động để trở thành như những chủ thể của Đức Tin. Tuy nhiên, Giáo hội có phẩm trật là để phục vụ chứ không phải để thống trị (Xc. GH. chương I; Kim Thao, Thời Sự Thần Học số 29, “Giáo Hội Học sau Công Đồng Vaticanô II”, trang 12; Bruno Forte, “Giáo hội bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi”, K’Bao dịch, trang 15-23).

[9] LM Nguyễn Thế Thuấn dịch là : “Còn Ta, Ta ở giữ các ngươi như kẻ hầu bàn”.

[10] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, 2003,
bài “Sự Tự Do của Con cái Chúa”.

[11] Chẳng hạn, trong Thánh lễ, phút thinh lặng sau các bài đọc, sau bài giảng, sau rước lễ.

[12] Xc. “Đạo” Thực dụng.

 

 

 

 

 

 

HOME

 

 

 

 

 

“ĐẠO” THIÊNG LIÊNG


1. VÀI HIỆN TƯỢNG


1.1 Đức Tin tách rời cuộc sống

Chắc hẳn chúng ta đã từng được nghe những lời phàn nàn của những người trẻ về đời sống đạo của cha mẹ và những người lớn tuổi, phàn nàn về một đời sống đạo đọc kinh, đi lễ nhiều nhưng lại chẳng có chút biến đổi gì trong cuộc sống đời thường. Những lời phàn nàn ấy không phải là không có lý. Đối với những người trẻ, đời sống thực quan trọng hơn những giá trị thiêng liêng và chính chứng tá của đời sống thực mới có sức thuyết phục.

Cùng trong chiều hướng ấy, chúng ta cũng có thể dễ dàng nghe thấy một số người tân tòng, tin đạo cách chân chính, cảm thấy ngạc nhiên về đời sống Đức Tin của những người “đạo gốc”, một đời sống đạo không biểu lộ được một sự an vui, ít thể hiện thành đời sống bác ái yêu thương…

Chúng ta có thể đọc được nơi những triết gia vô thần nhân bản, những nhà văn nặng lòng với cuộc đời rất nhiều lời phê bình tôn giáo ở khía cạnh này. Nhà văn Đức Bertolt Brecht (1896-1956) có lần nói đại khái rằng : khi tôi chết tôi không cần chết một cách lành thánh, nhưng là từ giã một thế giới đã lành thánh hơn. Cũng thế, triết gia Anh Bertrand Russell (1872-1970) không phải là vô lý hoàn toàn khi phê bình tôn giáo, đặc biệt Kitô giáo rằng :

“... Đế quốc La Mã sụp đổ, nhưng các linh mục trong Giáo hội có quan tâm tới cái đó đâu. Họ chỉ lo làm sao phụ nữ giữ được trinh khiết thôi. Cái đó đối với họ mới là quan trọng (...). Ngày nay nhân loại cũng đang sụp đổ và tôi thấy nhiều giáo sĩ địa vị rất cao chỉ nghĩ tới vấn đề làm sao ngăn được sự thụ thai nhân tạo; họ cho việc đó quan trọng hơn nhiều việc ngăn ngừa thế giới nó sẽ tiêu diệt nhân loại không còn lấy một mạng. Theo tôi, họ như thiếu ý thức về cân xứng, cái quan trọng thì cho là tầm thường và ngược lại”[1].

Lời phê bình ấy quả thực có phần bất công hoặc chỉ hoàn toàn đúng với bầu khí Giáo hội trong quá khứ. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy nơi đây có phần sự thật, sự thật về nét “thiếu ý thức về cân xứng”, nhất là tại Giáo hội Việt Nam. Có lẽ Giáo hội Việt Nam cũng cần đối diện với những nhà vô thần nhân bản chân chính…

Dĩ nhiên, chúng ta hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu, chính yếu, không phải là cộng đoàn những người đức độ, nhưng là cộng đoàn những người được cứu độ. Chẳng nên so sánh “trình độ đạo đức” của một người Kitô hữu với một người ngoài Kitô giáo để khẳng định kết luận đạo nào là đúng hơn; chẳng những vì “khởi điểm” của hai người ấy khác nhau, nhưng còn vì hệ thống giá trị trong mỗi tôn giáo cũng có nhiều khác biệt. Tuy thế, một đời sống của những con người được cứu độ chắc chắn không phải chỉ là có một đời sống thiêng liêng, với những sinh hoạt tôn giáo và những giá trị thiêng liêng chỉ dành cho cuộc sống mai sau. Đời sống đức Tin thiết yếu phải sinh hoa trái trước tiên ở đời này, trong đời sống nhân bản và phải góp phần biến đổi cuộc sống nhân sinh. 


1.2 Đức Tin chỉ biểu lộ nơi sinh hoạt phượng tự

Những người Kitô hữu tây phương mới tới Việt Nam chắc hẳn phải trầm trồ khen ngợi về sinh hoạt đạo sầm uất của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Tính chất sầm uất ấy giờ đây cũng lan đến cả những Giáo hội Âu Mỹ, qua những cộng đồng người Việt di tản. Người Công giáo Việt Nam đi đến đâu đều làm cho những sinh hoạt tôn giáo phát triển : lễ lạy, đọc kinh, xưng tội, xây dựng nhà thờ và ơn gọi tu trì đông đảo… Trong khi đó, sinh hoạt đạo nơi những nước Kitô giáo kỳ cựu của Tây phương càng ngày càng trở nên èo uột, trở nên đạo của trẻ con và những ông bà già…

Tuy nhiên với một hướng nhìn khác, chúng ta lại có thể nhận thấy rằng : đời sống đức Tin nơi những người Kitô hữu Việt Nam triển nở phong phú nơi sinh hoạt đạo, thì lại rất ít trổ sinh hoa trái trong đời sống nhân bản, trong đời sống bác ái thường ngày. Ngược lại, “đức Tin” nơi nhiều Kitô hữu tại các nước Âu Mỹ Tây phương, tuy không, hoặc ít triển nở trong sinh hoạt thuần túy tôn giáo, sinh hoạt hoạt phượng tự, nhưng nói chung và với một số người, lại triển nở nhiều hơn trong những giá trị nhân bản.

Nếu phải lựa chọn một trong hai thứ hoa trái ấy, sinh hoạt đạo và những giá trị nhân bản, chúng ta sẽ lựa chọn điều nào ?

Dĩ nhiên, Kitô giáo không thể được coi như một thứ “đạo tại tâm”, nhưng nhất thiết bao hàm sự gặp gỡ, liên đới, gặp gỡ với Đức Giêsu và với anh chị em của mình; và đó sự hiệp trong niềm Tin chứ không phải chỉ ở mức độ những giá trị nhân bản. Ngược lại, đức Tin cũng chẳng phải là một thế giới thuần tuý “thiêng liêng” chẳng dính dáng gì đến trần thế, nhất là trong lãnh vực những giá trị nhân bản chân chính. Tinh thần trần tục hóa tại cái nước tây phương Kitô giáo khiến cho người ta không còn quan tâm đến sinh hoạt tôn giáo. Chúng ta có thể dự đoán tinh thần trần tục, chẳng bao lâu nữa, cũng sẽ lan tràn trên đất nước Việt Nam và sẽ thấm nhiễm sâu xa vào những thế hệ con em chúng ta. Liệu chừng khi ấy, đời sống đức Tin theo kiểu “đạo sinh hoạt“ tại Giáo hội Việt Nam sẽ còn lại những gì ?


1.3 Coi thường giá trị trần thế

Từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, bầu khí trong Giáo hội đã có nhiều quan tâm đến sinh hoạt trần thế và những hiệp hội “Công giáo tiến hành” phát triển mạnh mẽ. Công đồng Vatican II xác nhận hiện tượng ấy bằng việc mở cửa ra với thế giới, can dự vào những vấn đề căn bản của cuộc sống con người; đồng thời cũng khám phá lại nền tảng thần học về phẩm giá và vai trò của người giáo dân, đặc biệt trong sứ mệnh trần thế.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, hình như vấn đề vẫn mới chỉ được triển nở ở phần ngọn. Người giáo dân được đề cao trong những sinh hoạt tông đồ, người giáo dân chủ động hơn trong trách nhiệm đối với giáo xứ. Thế nhưng, trách nhiệm cụ thể trong đời sống gia đình và sứ vụ “làm đẹp bộ mặt trần gian” vẫn là một điều xa lạ. Người giáo dân Việt Nam vẫn không được giúp để nhận ra giá trị của sứ vụ “có tính trần thế”[2] trong ơn gọi của mình, như Công đồng Vatican II xác định. Người giáo dân chỉ được khuyến khích để cộng tác với linh mục và tu sĩ trong những sinh hoạt tôn giáo, và trong lãnh vực này, vai trò người giáo dân vẫn luôn luôn là phụ thuộc, luôn luôn là những người không đủ uy tín, do vị thế giáo dân của mình. Ngay hiện tượng phong phú ơn gọi tu sĩ và linh mục ở Việt Nam, thật ra, cũng là biểu hiện của một quan niệm về bậc thang xã hội hoặc một thứ bậc giá trị, giá trị thiêng liêng cao hơn giá trị trần thế, hơn là sự lựa chọn dâng hiến cuộc đời cho Chúa trong sự liên đới sâu xa với con người và cuộc sống con người.

Lý do có lẽ là não trạng chung của người Kitô hữu Việt Nam chưa thấm nhuần ý nghĩa “giá trị trần thế” trong nhiệm cục cứu độ cánh chung mà Công đồng Vatican II đã xác định. Do đó, việc đề cao vai trò giáo dân mới chỉ là mời gọi giáo dân cộng tác với giáo sĩ và tu sĩ chứ chưa giúp giáo dân nhận ra vị thế của mình trong Giáo hội; mới chỉ là khuyến khích nghề tay trái chứ chưa giúp giáo dân sử dụng chính ngành nghề chuyên môn của mình để góp phần xây dựng Nước Chúa[3]qua chính công việc trần thế của mình. Chiều hướng ấy đưa đến hậu quả là người giáo dân đạo đức vẫn chỉ biết đua nhau tham gia công tác nhà thờ chứ ít nhận ra con đường nên thánh trong trách vụ hằng ngày; người giáo dân sốt sắng chỉ mới nhận ra trách nhiệm của mình đối với sinh hoạt nhà thờ chứ ít nhận ra trách nhiệm của mình đối với thế giới, đối với xã hội, đối với gia đình, đối với những tổ chức và sinh hoạt trần thế chung quanh mình. Trong sinh hoạt đạo, người giáo dân luôn luôn đóng vai trò tuỳ phụ, phục tùng; chính điều này khiến cho Giáo hội Việt Nam không làm sáng lên được nét bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm riêng của mọi người Kitô hữu[4].


1.4 Bầu khí “thiêng liêng”

Hình như, nói chung, trong Giáo hội Công giáo việt Nam, niềm tin vào Chúa và đời sống đạo, vẫn là một gánh nặng cho cuộc sống hơn là một sự nâng đỡ, vẫn là một sự ràng buộc hơn là một ơn giải thoát thực sự. Hình như người Kitô hữu sống đạo theo kiểu phải trích một phần hoa trái của đời sống hiện tại (và do đó cảm thấy mất mát) để góp phần “đóng bảo hiểm” cho một thế giới sau khi chết, một cuộc sống mà bây giờ ta chưa cảm được gì, một gia sản mà hiện tại ta chưa “xài” được. Nói rõ ra, chính vì nỗi sợ hoả ngục, sợ Chúa mà người Kitô hữu phải ráng giữ đạo, chấp nhận những đòi buộc của tôn giáo trong một tâm tình “chịu vậy”. Tôn giáo như thế chẳng qua là một thứ “gia sản thiêng liêng”, thuần túy thiêng liêng để xài cho cuộc sống mai sau chứ không ảnh hưởng gì đến tình tự cuộc sống hôm nay. Cách sống đạo như thế khiến cho người giáo dân rơi vào tình trạng “một cổ hai tròng”.

Chúng ta cũng có thể gặp không ít những vị bề trên rất an ổn lương tâm khi hành xử quyền bính cách nào đó khiến cho người tu sĩ trở nên sợ sệt, nhát đảm, gian dối, và thui chột bao nhiêu năng lực đời người. Chúng ta có thể thấy nhiều tu sĩ cảm thấy tiếc và không dám từ bỏ đời sống tu trì, cho dù thấy mình không thích hợp, cho dù đời sống tu đối với họ không có ý nghĩa, cho dù trong đời tu nhân cách của họ trở nên dúm dó, méo mó đáng thương; chúng ta có thể thấy nhan nhản những linh mục làm khổ giáo dân để đổi lại cho họ một số giá trị thiêng liêng; chúng ta có thể thấy một số người tân tòng cảm thấy nặng nề và sợ hãi sau khi học biết giáo lý; chúng ta cũng có thể gặp thấy không ít những linh mục, tu sĩ rất trung thành tận tụy với những sinh hoạt thiêng liêng và an ổn với những sinh hoạt ấy như một “đời sống tâm linh” vững chắc, thế nhưng lại quá dễ dàng bị buồn tủi vì một xúc phạm nhỏ, hoặc có thái độ hết sức phòng vệ, hết sức chủ quan, biểu hiện rõ một sự thiếu hụt trong mối tương quan thông thoáng và thân tình với Chúa Giêsu, mà một đời sống tâm linh đích thực không thể không có …, tất cả những điều kỳ lạ ấy được bảo vệ, được bao bọc vững chắc, được hóa giải một cách hợp lý và được chấp nhận nhờ một bầu khí của những giá trị thiêng liêng, những ơn ích thiêng liêng.

Chắc hẳn có nhiều người phản đối nhận định ấy. Tuy nhiên tôi vẫn thấy không làm sao có thể nối kết một cách thuyết phục về những “ơn ích thiêng liêng” mà Giáo hội vẫn rao truyền với một đời sống không có sự triển nở thực sự về nhân bản. Có một khoảng cách khá lớn giữa những sinh hoạt đạo đầy dấu chỉ biểu lộ ân sủng, so với cách sống thực tế của những người Kitô hữu, hoặc ngay cả của những linh mục, tu sĩ …, những cách sống còn đầy rẫy tật xấu, và nhất là cách sống đã “an ổn” trong những tật xấu. Khoảng cách đó khiến cho người ta, hoặc chỉ còn có thể nhắm mắt để tin rằng những ân sủng “thiêng liêng” ấy thực sự đang biến đổi tâm hồn con người…, hoặc hóa giải hố thẳm đó bằng cách gán cho những ân phúc thiêng liêng một giá trị duy nhất còn lại, giá trị luật pháp, giá trị làm giảm bớt tội hình cho cuộc sống sau khi chết; một đời sống đạo chỉ còn là để “cứu rỗi các linh hồn”.


2. VÀI NHẬN ĐỊNH


2.1 Đời sống thiêng liêng Kitô giáo [5]

Những suy tư cũng như cách thức thể hiện đời sống thiêng liêng[6] hay đời sống tâm linh Kitô giáo chịu sự tác động của hai nguồn mạch khác biệt, nếu không muốn nói là đối lập nhau trong nhiều khía cạnh : truyền thống Hy Lạp và truyền thống Sê-mít.

Trong truyền thống triết học Platon, “tinh thần” có nghĩa là đối nghịch với vật chất. Tinh thần không những siêu việt hơn vật chất, nhưng tinh thần còn cần phải được giải thoát khỏi vật chất để có thể trở nên cao cả, siêu thoát và thể hiện nét thuần túy tinh thần. Thân xác được cấu tạo nên từ vật chất và sinh hoạt trong những điều kiện vật chất, nên chẳng những không dự phần chút nào vào lý tưởng cao cả của đời người, mà còn gây phương hại cho đời sống tinh thần đích thực. Đời sống tinh thần như thế được dành riêng cho những người có thể sống vượt trên những lo toan của đời sống vật chất và từ đó mới có thể hoàn toàn dấn thân cho những thế giới tinh thần, cho sinh hoạt của lý trí, cho thái độ chiêm niệm.

Quan điểm này đã ảnh hưởng rất sâu trong Giáo hội và trở nên một linh đạo chính yếu cho đời sống thiêng liêng Kitô giáo. Vượt trên đời sống luân lý như một mức độ tối thiểu của đời sống đức Tin, những ai muốn đi sâu hơn vào đời sống thiêng liêng phải đi vào con đường tu đức [7], con đường siêu thoát, con đường của tránh xa những lo toan trần thế để sống sung mãn hơn đời sống nội tâm. Tuy nhiên, con đường tu đức như thế, những người sống giữa trần gian, những người giáo dân, nhưng người bận bịu với công việc gia đình, những người lãnh trách nhiệm trần thế… sẽ không thể vươn tới được.

Thánh Kinh, theo truyền thống Sê-mít, cho chúng ta thấy có một nguồn mạch khác hẳn về đời sống thiêng liêng. Người tín hữu được kêu gọi sống theo tinh thần của Chúa. Người sống theo tinh thần của Chúa (Thần Khí) sẽ sống dưới tác động của của Thiên Chúa, sống phù hợp với những điều Chúa muốn, họ thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Tinh thần của Chúa đến với con người và làm cho con người suy nghĩ, hành động, ứng xử như Thiên Chúa. Ngược lại, người không sống theo tinh thần của Chúa nhưng theo tinh thần của riêng mình, hoặc theo tinh thần thế gian, sẽ suy tính và hành động theo sự độc lập, đóng kín của bản thân, theo những nguyên tắc khôn ngoan của trần thế.

Như thế, tinh thần của Chúa không đối lập với vật chất nhưng đối lập với “xác thịt” [8], tức những gì là thấp hèn của thế gian. Tinh thần của Chúa không đương nhiên phù hợp với tinh thần của con người và chống lại thân xác cũng như sinh hoạt vật chất của con người, nhưng Tinh thần của Chúa có khả năng thúc đẩy tinh thần con người cũng như sử dụng thân xác và những sự vật vật chất để thực hiện chương trình của Ngài. Ở đây không còn vấn đề đương nhiên khinh dễ thân xác và đương nhiên ca tụng tinh thần của con người; nhưng tất cả tinh thần và thân xác con người cần phải hoán cải, cần buông mình theo luồng gió của Thánh Thần. Do đó, đời sống thiêng liêng, theo nghĩa căn bản, không còn có nghĩa là xa lánh thế gian và những bận rộn của cơm áo, gạo tiền, nhưng là sẵn sàng với tiếng nói của Thiên Chúa.

Cách phân biệt của triết học theo đường hướng Platon lấy tiêu chuẩn là bản chất sự vật, là tinh thần hay vật chất; đức tính chính yếu của nẻo đường này là siêu thoát khỏi vật chất. Ngược lại, cách phân biệt của truyền thống Do Thái – Kitô giáo lấy mối tương quan chân thật với Chúa là trung tâm để phân biệt những gì chân chính và những gì giả hình; đây là cặp đối lập giữa những gì thể hiện mối tương quan chân thành giữa Thiên Chúa với con người, so với thái độ chống đối Thiên Chúa hoặc những mối tương quan cứng đọng trong nghi thức, trong lề luật, trong khuôn mẫu hoàn thiện…. Do đó, đức tính chính yếu của đời sống tâm linh Kitô giáo là thái độ trung tín; hoặc diễn tả cách khác, đó là thái độ không ngừng sám hối, tỉnh thức, sẵn sàng, xin vâng trước lời mời gọi của Chúa.


2.2 Đặt vấn đề ở mức độ giá trị

Ngay từ đầu, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé đầu tiên đã phải đối diện, hoặc đúng hơn phải đấu tranh với những thế lực khổng lồ, trước tiên là đế quốc Roma, nhưng sâu xa hơn đó chính là hệ thống triết học Hy La thời ấy. Trong cuộc đấu tranh này, Giáo hội đã tiếp thu, thích ứng, biến đổi nhiều yếu tố của nền triết học “ngoại giáo”, đồng thời cũng tìm cách tự giải thích mình trong bầu không khí triết học ấy.

Cùng với niềm mong ước cánh chung siêu thoát trong Giáo hội của những thế kỷ đầu bị bách hại, chính học thuyết Platon, nhất là tân-Platon, đã thâm nhập vào Giáo hội và tạo nên bầu khí duy linh. Cho dù tư tưởng của Thánh Thomas đã tạo một nền tảng triết học và thần học theo học thuyết Aristote, vốn tôn trọng trần thế, nhưng tinh thần duy linh và siêu thoát ấy vẫn ảnh hưởng sâu xa trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực tu đức. Thời Trung cổ, người ta phân biệt con người thiêng liêng (tu sĩ và giáo sĩ) với con người xác thịt (giáo dân); nỗ lực chính của đời sống đạo là xa lánh ma quỉ, thế gian và xác thịt; thế giới này được nhìn như vũng lầy nước mắt, những nỗ lực xây dựng cuộc sống hiện tại không được trân trọng cho đủ…, tất cả những điều đó vẫn tồn tại cho đến Công Đồng Vatican II, và cho tới hiện nay, nơi đời sống đạo của người Công giáo Việt Nam. Những điều đó làm nên một thứ giá trị thiêng liêng, cao quí hơn và thường khi đối lập với những giá trị nhân sinh trong cuộc sống trần gian[9].

Không thể phủ nhận những nỗ lực và những thành công của Giáo hội Việt Nam. Tuy nhiên, theo tôi, những nỗ lực ấy chưa đụng đến nhiều tầng sâu của nhân cách chân chính của con người : mức độ giá trị. Nhiều người tín hữu Kitô giáo Việt Nam là những người thành tâm thiện chí, nhưng đã không được giúp để thấy những giá trị Tin Mừng, nhưng giá trị có tầm mức Cánh Chung của sứ điệp Kitô giáo và đã sống đời sống luân lý Kitô giáo với “nhân đức chịu vậy”[10]. Cũng thế, ảnh hưởng của Công Đồng Vatican II tại Giáo hội Việt Nam chưa được triển khai đến mức độ tạo nên những giá trị căn bản cho đời sống Đức Tin, nhưng mới dừng lại ở những bài học kiến thức và trong việc đổi mới hoạt động. Do đó, ngoài những bài học và những hoạt động mới, chúng ta lại thấy nhan nhản những hành vi, những thái cử, những bài giáo huấn … đầy tính cách tiền-công-đồng.

Có lẽ cần làm sáng lên khía cạnh “giá trị trần thế” mà Công Đồng Vatican II đã nêu lên, đặc biệt trong Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng. Lời khẳng định mở đầu của Hiến Chế có thể toát lược toàn bộ giá trị này :

“Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai sầu khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (MV 1).

Sau một thời gian dài Giáo hội chống lại trào lưu trần tục hóa và chống lại Duy tân thuyết với những lời kết án, Công Đồng Vatican II muốn mở cánh cửa để cho căn phòng Giáo hội thêm thoáng khí và để đón nhận, yêu thương, phục vụ con người.

Công đồng nhìn nhận tính độc lập hợp pháp của thực tại trần thế : “Nếu sự độc lập của các thực tại trần thế có nghĩa là các tạo vật và các xã hội đều có những định luật và những giá trị riêng mà con người phải khám phá dần dần, xử dụng và điều hòa, thì đòi hỏi một sự độc lập như thế là một việc hoàn toàn chính đáng : đó là điều không những người đương thời đòi hỏi mà còn phù hợp với ý muốn của Tạo Hóa” (MV. 36 b), tuy vẫn không quên nhắc nhở rằng “quên mất Thiên Chúa, mọi tạo vật đều trở nên mờ tối” (MV 36c). Hơn nữa, chính việc làm đẹp bộ mặt trần gian thuộc về trách nhiệm của niềm Tin :

“Chúng ta được cảnh giác là lời lãi cả thế gian mà chính mình hư mất nào ích lợi gì. Nhưng sự trông đợi trời mới đất mới không được làm giảm suy, trái lại phải kích thích nỗ lực phát triển trái đất này, nơi mà Thân thể gia đình nhân loại mới đang tăng trưởng và tiên báo một vài hình ảnh của thời đại mới” (MV 39b).

Những điều đó không phải chỉ là những lời khuyên đạo đức nhất thời, hoặc một cách ứng xử trong một hoàn cảnh đặc thù, nhưng là một não trạng mới, một giá trị của thời đại mà người Kitô hữu hậu Công đồng không thể bỏ qua hay từ chối.


2.3 Nguy cơ tách lìa đức Tin và đời sống thường ngày

Hiến chế Mục Vụ nhận định rằng một trong những nguy cơ lớn nhất của thời đại chính là thái độ tách lìa đức Tin và đời sống thường ngày :

Sự trợ giúp mà Giáo hội cố gắng nhờ các Kitô hữu mang đến cho sinh hoạt nhân loại 47*. Công Đồng khuyến khích các Kitô hữu, công dân của cả hai đô thị, hãy nỗ lực và trung thành chu toàn những bổn phận trần thế của họ dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai biết rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế nhưng phải kiếm tìm một quê hương hậu lai, mà lại tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian 13, như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó hoàn hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình 14. Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với những ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào các sinh hoạt trần thế như thể các sinh hoạt ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo, vì cho rằng đời sống tôn giáo chỉ hệ tại những hành vi phụng tự và một vài bổn phận luân lý phải chu toàn. Sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Và gương mù này ngay trong Cựu Ước các Tiên Tri đã mạnh mẽ tố cáo 15 và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề 16. Vậy, không được tạo đối nghịch giả tạo giữa sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội với đời sống tôn giáo. Đối với Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha nhân và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa. Theo gương Chúa Giêsu đã sống như một người thợ, các Kitô hữu hãy vui mừng vì có thể thi hành mọi sinh hoạt trần thế mà đồng thời có thể liên kết trong một tổng hợp sống động duy nhất: các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo. Dưới sự điều hướng tối cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về vinh quang Thiên Chúa. (MV 43a).

Thái độ tách rời này không là gì khác hơn hệ quả của một lối nhìn theo quan điểm duy linh, trong đó, chỉ những gì thiêng liêng mới có giá trị. Ngược lại, thái độ gắn liền đức Tin và cuộc sống thường ngày chính là nhìn nhận chủ quyền của Thiên Chúa trên tất cả mọi sự; và nhận rằng trách nhiệm của con người trong công cuộc trần thế cũng chính là trách nhiệm do đức Tin đòi hỏi.


2.4 Nhìn lại một chút về nguồn mạch luân lý

Truyền thống Do thái Kitô giáo luôn luôn lấy Chúa là nguồn mạch của luân lý. Dân Chúa đã tuân giữ luật lệ, Mười Điều Răn chẳng hạn, không phải vì luật lệ đó hoàn hảo, nhưng trước tiên là vì trung tín với Chúa. Cũng thế nền luân lý Kitô giáo, trước tiên, tìm sự bảo đảm nơi những chân lý mạc khải. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là luân lý Kitô giáo có thể bao hàm những điều trái nghịch với tự nhiên. Ngược lại, niềm tin cho chúng ta biết rằng chính mạc khải là con đường được hướng dẫn để sống trọn vẹn phẩm chất người; những chân lý của Chúa giúp cho hành trình đời người được ngay chính[11].

Một quan niệm tội chỉ là và chỉ vì trái ý Chúa sẽ tạo nên một lô các “tội vô duyên” và cả những “nhân đức vô duyên”; những thứ “tội” chẳng có gì là ngược với tình yêu thương, chẳng có gì là xấu theo cảm quan tự nhiên, trong sáng, bình thường; và những nhân đức chẳng thể hiện được một chút yêu thương bác ái nào cả. Thánh Thomas nói :

"Kẻ nào tránh điều ác không phải bởi vì đó là điều ác mà bởi vì đó là lệnh Chúa cấm làm, kẻ đó không tự do”[12].

 Nhiều người Kitô hữu chỉ còn thấy tội là điều gì thuần túy thiêng liêng chứ không thấy sự giằng xé của tội trong cuộc sống hôm nay; ơn phúc cũng là những thực tại thuần túy thiêng liêng chứ không phải là những yếu tố góp phần xây dựng Nước Trời ngay từ hôm nay. Việc Thiên Chúa tha tội chỉ còn có nghĩa là Thiên Chúa thôi tính sổ ở đời sau chứ không thấy rằng Thiên Chúa muốn liên đới với tội nhân để sửa chữa những đổ vỡ do tội lỗi gây nên. Đây là một mối nguy không nhỏ[13]! Chính những loại “tội - phúc” như thế làm cho đời sống đạo mất đất sống, mất dần ý nghĩa chân chính và cũng làm méo mó khuôn mặt đích thực của một Thiên Chúa yêu thương.

 Ở đây chúng ta lại có thể thấy tính cách can đảm của thánh Thomas khi Ngài bàn về vấn đề luân lý khởi từ hạnh phúc của con người chứ không phải khởi từ thiên luật.


3. TÌM LẠI Ý NGHĨA ĐỨC TIN


3.1 Xương sống của lịch sử cứu độ chính là cuộc sống

Khởi đầu của kinh nghiệm Do Thái - Kitô giáo là cuộc sống, chính vì trăn trở với những đau khổ trong cuộc sống mà các thánh ký nhận ra được nguồn gốc của nó là tội; và cũng chính vì tha thiết với cuộc sống mà con người được kêu gọi mong chờ Đấng Cứu Tinh. Ơn cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu, một cách chính yếu, cũng chẳng phải là nhằm giải thoát khỏi cuộc sống nhưng, ngược lại, chính là dẫn dắt toàn thể lịch sử vũ trụ và con người đến ngày hoàn tất chung cuộc.

Ơn cứu độ của Đức Giêsu không phải là cái chết lơ lửng, chỉ có một giá trị pháp lý trước mặt Chúa Cha, nhưng chính là một cuộc đời hết lòng yêu thương, đón nhận con người nhất là những người bị bỏ rơi, một thái độ yêu thương cho đến cùng, cho dù chính vì sự liên đới yêu thương đó mà Ngài bị giết chết. Cái chết của Ngài gắn liền với cuộc đời, sứ vụ công khai và bộc lộ ý nghĩa trọn vẹn của sứ vụ ấy. Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng không phải chỉ là những nhân đức để đổi lấy sự giải thoát khỏi cuộc đời, nhưng chính là hạt men, hại cải để biến trần gian thành Nước Trời. Cũng thế, việc Phục Sinh của Ngài không phải chỉ là để khẳng định vị thế Con Thiên Chúa mà là để tiếp tục thực hiện những điều Ngài đã làm trong cuộc đời công khai của Ngài[14].

Khi Đức Kitô tách rời bệnh tật ra khỏi tội lỗi cá nhân trực tiếp của người bệnh tật[15], thì không có nghĩa là tội lỗi không dính dáng gì tới những tai họa trong cuộc sống. Chính tội lỗi chung của nhân loại đang lây lan, tội từ chối chương trình của Thiên Chúa đã đưa con người vào tình cảnh bi đát hiện tại, những điều đó không dễ dàng phân tách rạch ròi trong từng trường hợp để qui gán tội cho một ai; và ở đây, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tới ơn cứu độ hơn là ngồi suy tính để đổ tội cho một người nào. Cũng thế, khi Chúa Giêsu khẳng định “thế thì của César trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21), thì điều ấy không có nghĩa là Đức Giêsu thiết lập một thế giới riêng, một thế giới tôn giáo tách biệt khỏi cuộc sống, một thế giới thiêng liêng không dính tới những nhu cầu của cuộc sống thật. Nhưng đó là Chúa Giêsu khẳng định một cách thức giải quyết căn bản cho cuộc đời, cách thức đặc trưng của Do Thái Kitô giáo, cách thức tìm về nguồn cội sâu xa nhất của ơn cứu độ, “trả về cho Thiên Chúa”.

Khi tội không còn dính dáng tới cuộc sống khổ đau thường ngày và khi ơn phúc cũng chẳng giải quyết gì cho cuộc sống ấy, thì tất cả đời sống đức Tin Kitô giáo trở thành nhạt nhẽo, xa lạ và đánh mất chiều kích cánh chung chân chính. Niềm hy vọng Cánh Chung chính là mong chờ Thiên Chúa hoàn tất lịch sử nhân loại trong một thế giới đại đồng, “tứ hải giai huynh đệ”. Ta có thể nói rằng, hơn tất cả mọi tôn giáo và học thuyết khác, Do Thái Kitô giáo là đạo gắn liền với cuộc đời.


3.2 Tin Mừng làm cho người ta được sống dồi dào

Trong những cuộc tranh luận cuối cùng với người Do Thái, Chúa Giêsu kêu mời người Do Thái hãy tin vào những việc làm của Ngài nhân danh Chúa Cha, và công việc đó được minh chứng cụ thể bằng chính đời sống của đoàn chiên :

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời…” (Ga 10, 27-28).

Đức Giêsu, là Mục Tử nhân lành, chọn lấy mục tiêu của sứ vụ là làm cho đoàn chiên được sống sung mãn, trọn vẹn, dồi dào : “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Và cũng chính vì sự sống dồi dào phong phú của đàn chiên mà Chúa hy sinh mạng sống mình :

“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên”(Ga 10, 10-11).

 Ưu tư lớn trong tâm hồn của Chúa Giêsu là làm cho con người được sống chứ không phải là bảo vệ vinh quang Thiên Chúa. Chúng ta có thể thấy hết sức rõ ràng cả cuộc đời Đức Giêsu là một cuộc đấu tranh cho con người, nhất là những người bé mọn. Chúa Giêsu luôn luôn đứng về phía con người, nhất là những người bé mọn, để chống lại những người Do Thái muốn nhân danh sự cao cả của Thiên Chúa để bóp nghẹt đời sống con người. Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát (xc. Ga 5,16), Chúa Giêsu tán đồng việc người đói có thể “ăn bánh trưng hiến”, và các môn đệ của Ngài có quyền lao động trong ngày Sabát để mưu sinh (xc. Mt 12,1-8); Chúa Giêsu đã dám tuyên bố một điều hết sức táo bạo, một tuyên ngôn “vô tiền khoáng hậu“ trong lịch sử nhân loại : “Ngày Sabát được làm ra vì con người chứ không phải con người vì ngày Sabát” (Mc 2, 27).

Tin Mừng của Chúa Giêsu như thế chính là một tuyên ngôn nhân bản trọn vẹn nhất, nơi đây con người được là mình, được sống phẩm vị cao quí của mình, và được đáp ứng những nhu cầu thâm sâu nhất của phận người, chứ không phải một đời sống đạo dúm dó, sợ sệt; một nhân cách ấu trĩ, so đo tính toán; biểu lộ trong tinh thần nệ luật, lách luật, hoặc thu gom công phúc một cách máy móc cho đời sống mai sau. Chính trong ánh sáng Tin Mừng ấy, con người được lớn lên trong mọi chiều kích, nhân bản và tâm linh.


3.3 Giá trị thiêng liêng trong việc trần tục

Não trạng của người Hy Lạp vốn phân biệt tinh thần khác với vật chất và thiết lập một bậc thang giá trị theo tiêu chuẩn những gì càng ít dính vào vật chất càng cao quí. Ngược lại, Thánh Kinh cho chúng ta một quan niệm khác, theo đó, mọi vật Chúa làm nên đều tốt đẹp, và sự thiện hảo ấy vẫn luôn có trong mọi vật, bao lâu sự vật vẫn sống đúng theo bản chất “thuộc về Chúa“ của chúng. Đó là một quan niệm lạc quan và trân trọng trần gian :

“Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, và không ghê tởm một loài nào Chúa đã làm ra; vì giả như Chúa ghét loài nào, thì Chúa đã chẳng dựng nên” (Kn 11,25).

 Như thế, trần gian tự nó là tốt đẹp, và trần gian ấy không cần phải bị mạt sát để làm nổt bật danh giá của Chúa, nhưng cần phải được đề cao để làm nổi bật tác động sáng tạo và cứu độ của Ngài, đúng như lời thánh Irênê : Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống.

 Hơn nữa, trong “Dụ ngôn về sự trần tục hóa” (Mt 25, 31-46), chúng ta thấy Thiên Chúa phân loại chiên và dê không dựa theo việc nhận ra hay không nhận ra sự hiện diện của Chúa, nhưng theo tiêu chuẩn của những công việc trần thế. Rõ ràng Chúa Giêsu đặt tầm quan trọng của cuộc sống nơi sinh hoạt đời thường, đồng thời Ngài thánh hóa công việc đời thường ấy bằng cách cho nó một giá trị có tính quyết định đối với vận mang siêu nhiên của con người :

“Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).

Quả thật, tự căn bản của truyền thống Do Thái Kitô giáo, chúng ta đã thấy mầm mống của một cuộc cách mạng. Thay vì một thế giới đầy thần thánh của các tôn giáo cổ xưa, thế giới sáng tạo của Thánh Kinh đã tách biệt Thiên Chúa khỏi thế giới, quan niệm ấy đã góp một phần quan trọng vào tiến trình trần tục hóa của nhân loại[16]. Đồng thời, thay vì đặt vũ trụ trên con người, Thánh Kinh đã cho thấy Thiên Chúa trao vũ trụ đã được tước bỏ mọi tính tính thần thiêng ấy cho con người để con người “đặt tên” cho chúng. Con người không còn là một tiểu vũ trụ, phải noi theo qui luật của đại vũ trụ, nhưng con người được trao trách nhiệm đưa dẫn toàn thể vũ trụ này về cùng đích của chúng là Thiên Chúa. Trong bối cảnh chung ấy, ta hiểu được ý nghĩa của cuộc sống trần thế và trách nhiệm của con người với thế giới ấy : con người có trách nhiệm nhân văn hóa thế giới bằng những giá trị nhân bản, và thiêng liêng hóa thế giới bằng chính niềm tin của mình.

Dĩ nhiên không được bám vào dụ ngôn này để loại trừ tất cả mọi sinh hoạt tôn giáo và phượng tự. Tuy vậy, chúng ta cũng có thể khẳng định chắc chắn rằng một đời sống tôn giáo mà không trổ sinh hoa trái trong một đời sống yêu thương cụ thể thì không thể là một đời sống của những người được cứu độ. Thánh Thomas nói : “Ân sủng không phá hủy nhưng kiện toàn tự nhiên”(St I, q.1, a.9, ad 2).


3.4 Thiên Chúa đứng về phe sự thiện

Qua đoạn Tin Mừng Mc 3, 1-5, Chúa Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn nhận định về hành vi luân lý, không phải dựa trên lối phân biệt thánh thiêng và trần tục, nhưng trên tiêu chuẩn thiện ác :

“Ngày Sabát, được làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi” (Mc 3,1-5)

Khi lo lắng bảo vệ ngày Sabát, những người Do Thái muốn đặt lằn ranh giữa thánh thiêng và trần tục, giữa Thiên Chúa và cuộc sống đời thường. Cách phân chia đó làm cho cuộc sống trần gian đương nhiên phải cam chịu, những nỗ lực của con người đương nhiên phải dừng bước trước biên giới của thời gian và không gian thánh thiêng. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đặt lằn ranh phân chia theo một quan điểm khác, phân chia giữa thiện và ác, giữa cứu người hay giết người. Cách nhìn đó cho thấy Thiên Chúa đứng về phe sự thiện, Thiên Chúa ủng hộ những thiện hảo trong cuộc sống con người. Đức Giêsu không phân biệt Thiên Chúa một bên, trần gian một bên, theo kiểu người Hy Lạp; nhưng Ngài phân biệt Chúa cùng những sự thiện một bên, bên kia là satan và những sự dữ. Lối phân chia của Đức Giêsu thúc bách con người dấn thân trên nẻo đường sứ vụ, nẻo đường nhân hóa và thánh hóa trần gian.

Hơn nữa, chứng ta còn nhận ra sứ mạng của Chúa Giêsu là tìm cách giải thoát con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, khỏi những ràng buộc theo bậc thang giá trị luân lý của những người Do Thái, một thứ bậc thang giá trị quá đề cao sự thánh thiêng và đóng kín cửa Nước Trời trước những kẻ bé mọn.

Về điều này, Thánh Thomas cũng có một lập trường tuyệt diệu : “Tình yêu của Thiên Chúa chính là nguyên nhân phú ban và tác tạo nên sự thiện hảo trong các sự vật” (ST. I pars., q. 20; a. 2, resp.)


KẾT

Có một làng kia làm nghề may mũ. Những tay thợ lành nghề trong ngôi làng ấy vẫn luôn ganh đua nhau để trình bày những chiếc mũ tốt nhất, đẹp nhất, độc đáo nhất. Đó là một ngôi làng “đầy sức sống”. Tuy thế, những người thợ may mũ ấy lại không biết đội mũ và khi ra đường, họ vẫn cầm chiếc mũ đẹp của mình trong tay để khẳng định tay nghề của mình là độc đáo. Những người thợ ấy luôn luôn đau ốm vì nắng mưa …

Ta có thể nói rằng nhiều sinh hoạt đạo của Giáo hội Việt Nam giống như làng nghề mũ ấy. Thay vì để đức Tin và những sinh hoạt phượng tự, sinh họat đạo đức, mang lại một sự che chở trên hành trình cuộc đời, các sinh hoạt ấy lại tự tìm lý do hiện hữu trong một thế giới nào khác; thay vì tìm thấy niềm vui và sự bình an của Chúa trên bước đường đời, nhiều Kitô hữu lại chỉ biết tô vẽ mãi một thứ “đạo thiêng liêng” để dùng trong một thế giới khác.


 


[1] Bertrand Russell, Thế giới Ngày nay và Tương lai Nhân loại, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, Văn Hóa 1996, trang 46-47.

[2] Xc. GH 31 b : “Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt và đặc thù của giáo dân. Thực vậy, các phần tử trong hàng giáo sĩ đôi khi có thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi đặc biệt, sứ mệnh chính yếu và rõ rệt của họ vẫn là tác vụ thánh. Phần các tu sĩ, do bậc sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quí rằng người ta không thể cải tạo thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối phúc thật. Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế, xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là với bằng chứng đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo thánh ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ”.

[3] Xc. TĐGD số 13 : “Người giáo dân chu toàn sứ mệnh này của Giáo hội nơi trần gian : trước tiên bằng đời sống hòa hợp với đức Tin, để nhờ đó họ trở thành ánh sáng thế gian; bằng đời sống lương thiện trong bất cứ công ăn việc làm nào để làm cho mọi người yêu mến sự thật, sự thiện và cuối cùng đưa họ tới Chúa Kitô và Giáo hội; bằng đời sống bác ái huynh đệ qua việc họ thực sự chia sẻ với anh em trong hoàn cảnh sống, trong đau khổ cũng như trong mọi ước vọng, và như thế họ âm thầm chuẩn bị cho ơn cứu rỗi hoạt động trong tâm hồn mọi người; bằng cuộc sống ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc xây dựng xã hội, họ cố gắng chu toàn hoạt động nơi gia đình, ngoài xã hội, trong nghề nghiệp với lòng quảng đại của Kitô giáo; như thế phương thức hành động của họ dần dần thấm nhập vào môi trường sống và cả môi trường làm việc”.

Ta có thể đọc thêm lời giới thiệu của A. Palacios S.J về Sắc Lệnh Tông Đồ Giáo Dân, trong bản văn công Đồng Vatican II như sau : “… Sau đó, Công đồng giải quyết một vấn nạn được đặt ra từ đầu : đó là việc phân biệt hoạt động tông đồ ra “tông đồ trực tiếp và gián tiếp”; hoặc, theo nhiều người, phân biệt ra “tông đồ chuyên biệt và không chuyên biệt”. Lúc ấy người ta quan niệm rằng hoạt động tông đồ trực tiếp là tất cả những phương cách truyền bá Phúc Âm và thánh hóa các Kitô hữu hay những người ngoài Kitô hữu bằng sự loan báo Chúa Kitô, loan báo Phúc Âm hay bằng chính đời sống. Hoạt động tông đồ gián tiếp, trái lại, được cho rằng đó là những hoạt động hệ tại sự bảo đảm làm hoàn hảo trật tự trần thế, cho thấm nhuần tinh thần Phúc Âm và nhờ vậy tạo nên bầu khí thích hợp cho việc rao giảng Phúc Âm và thánh hóa con người. Như vậy, theo các quan niệm này, tất cả những hoạt động tông đồ có tính cách xã hội chỉ được coi là tông đồ gián tiếp. Rất nhiều nghị phụ không đồng ý quan niệm này. Về sau, ủy ban liên hệ bàn cãi lại và quyết định không dùng những từ ngữ phân biệt đó ở trong Sắc lệnh”.

[4] Xc. GH 32 “… nhưng giữa tất cả mọi người vẫn có bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô”.

[5] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, bài “Đời sống Tâm linh Kitô giáo”.

[6] Từ “spiritus” [hơi thở, gió, tinh thần, linh hồn…) trong tiếng la tinh được chuyển sang tiếng pháp là esprit và tĩnh từ là spirituel. Tĩnh từ spirituel vừa có nghĩa là thuộc về tinh thần, vừa có nghĩa là “thiêng liêng”, thuộc về Chúa.

[7] Việc tách biệt “luân lý” và “tu đức” đã phản ảnh quan niệm ấy. Những người bình thường chỉ phải giữ luân lý như là những điều tối thiểu; chỉ có những người đặc biệt mới được mời gọi để đi vào lãnh vực tu đức.

[8] Trong Thánh Kinh, từ “xác thịt” lại thường được hiểu theo nghĩa tiêu cực, không đồng nghĩa với thân xác hay vật chất.

[9] Chẳng hạn Thánh Odon de Cluny (879-940) nói : “Thân thể đẹp là nhờ làn da. Nay nếu nhìn qua làn da mà thấy được tất cả bên trong – như tục truyền rằng giống mèo rừng ở Bêôxi với đôi mắt sắc, chúng có thể nhìn thông suốt mọi vật – thì nhìn một người phụ nữ mà tởm thay ! Thử xem trong lỗ mũi, trong cuống họng, trong bụng của họ chứa những gì ? Toàn là máu mủ dơ bẩn cả. Vậy mà ta há lại nên ham ôm vào mình cái bọc ô uế đó ru ?” (Calaxion). (Trích lại trong Lương Duy Trung, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Văn Chính, Văn Học Phương Tây, tập một, Giáo Dục, 1990, trang123)

[10] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, bài “Nhiệm cục Cánh Chung”.

47*Xin trich dẫn cả các chú thích theo số của bản văn Công Đồng :

– Sống trong thế giới tín hữu phải tránh hai thái độ sai lầm: 1) bỏ sót công việc trần thế để chỉ lo cho việc đạo đức; 2) chìm đắm trong công việc trần thế và coi công việc này như không có liên quan gì đến việc đạo đức.

Qua cả hai sự sai lầm trên, người ta tách biệt đời sống tôn giáo và đời sống nghề nghiệp hay đời sống trần thế nếu nói rộng hơn (cuộc giải trí, văn hóa…) và lại hành động theo luân lý cá nhân (số 30).

Đức tin phải ảnh hưởng trên cả đời sống và ta phải đem tinh nhần Phúc Âm vào công việc trần thế: vào nghề nghiệp, vào giao thiệp với người khác, vào văn hóa, vào cuộc giải trí v.v… “Đối với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với những người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa”: vì bổn phận trần thế là phương tiện để thực hành đức mến đối với anh em và đối với Thiên Chúa. Không thực hành đức mến tức là phạm đến toàn thể bộ luật (x. Gal 5,14). Cho nên kẻ nào xao lãng bổn phận trần thế hay là tách rời nó khỏi ảnh hưởng của tinh thần Phúc Âm tức là người không sống đạo, họ không phải là người Công giáo.

13 Xem Dth 13, 14.

14 Xem 2Th. 3, 6-13 ; Eph 4, 28.

15 Xem Is 58, 1-12.

16 Xem Mt 23, 3-33 ; Mc 7, 10-13.

[11] Trong nền triết học luân lý, người ta có thể phân biệt ba nguồn mạch của luân lý : Những nền Luân lý Siêu việt [morales du Transcendant), tức những nền luân lý dựa trên một trật tự siêu việt, có tính tôn giáo hoặc có tính triết học; những nền Luân lý Tự nhiên [morales naturalistes), tức những nền luân lý triển khai theo bản tính tự nhiên của con người, nhất là dựa vào tâm lý học; và những nền Luân lý Tích cực [morales activistes), tức những nền luân lý được thích ứng, được phát triển theo trạng huống của con người. Nền luân lý tích cực này không chối từ những nguyện tắc trật tự siêu việt hoặc sự hợp lý của lý trí, nhưng nhấn mạnh khía cạnh giá trị, tức việc con người đón nhận như một chủ thể và tự do để sáng tạo ý nghĩa từ những nguyên lý ấy. Xc. Francois Grégoire, Les Grandes Doctrines Morales, Presses Universitaires de France, “Que Sais-Je ?”.

Sự trung tín với mạc khải của Chúa [nền luân lý siêu việt tôn giáo), nếu được hiểu một cách máy móc, cứng nhắc, hoặc chỉ thuần túy vì danh dự của Chúa, sẽ dễ có tính cách áp đặt và dễ làm méo mó nhân cách con người.

[12] Xc. Mai Văn Hùng, Khám phá lại Luân lý Kitô giáo, Tài liệu Tham khảo, Uỷ Ban Đoàn Kết Công giáo TP Hồ Chí Minh, 1991, trang 112-114 tt.

[13] Tình trạng sa sút của một tập thể, trước tiên và chính yếu nhất, thể hiện ở chỗ có sự chênh lệch giữa “căn bản siêu hình” và luân lý. Đối với Kitô giáo, có thể nói “căn bản siêu hình” chính là tình yêu thương; và luân lý, theo quan điểm thuần túy thiêng liêng, lại chỉ là những qui định cụ thể ít dính dáng tới tình yêu thương. Đó là sự “chênh lệch” tố cáo sự rạn nứt từ bên trong.

[14] Đức Gioan Phaolô II thật có lý khi thêm vào các mầu nhiệm Kinh Mân Côi các biến cố trong cuộc đời sống khai của Chúa Giêsu, các mầu nhiệm sự Sáng.

[15] Xc. Ga 9,3 : “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”.

[16] Xc. Albert Dondeyne, Tục Hóa và Đức tin, Vũ Dư Khánh chuyển ý, trong Tuyển Tập Thần Học số 15 (tháng 12-1973), trang 75-86.

 

 

 
   

 

 

 

 

 

“ĐẠO” LUÂN LÝ


1. CÁC THÁNH TRONG GIÁO HỘI

1.1 Nguyên lý nào ?  

Cứ như thói quen trong Giáo hội, vào ngày lễ một vị thánh nào đó, ta phải cố tìm cho ra những đức tính đặc biệt của ngài, để ca tụng và để làm gương cho người tín hữu. Quan niệm chung chung vẫn cho rằng các thánh không thể là những con người tầm thường như chúng ta, các thánh phải có điều gì hơn người, phải khác với những người chúng ta nhìn thấy, gặp gỡ hiện nay trong cuộc sống... Nhưng quả thật là khó để tìm ra một đức tính nào trổi vượt nơi hai ông Simon và Giuđa này[1]. Lịch sử không để lại vết tích nào đặc biệt; hai vị được thánh ký kể đến trên mỗi Giuđa phản bội mà thôi; những thứ hạng "rốt bét".

Điều đó làm cho ta bỗng sực tỉnh để nhận ra rằng : không phải chỉ có hai vị này mà hình như cả nhóm 12 tông đồ đều là những người không phải ngon lành gì; nói đúng ra, các vị cũng là những con người khá cù lần. Phêrô, tông đồ trưởng, thì bốc đồng; Giacôbê và Gioan thì nóng nẩy (con của sấm sét) và ham mê quyền lực (x. Mc 10, 35-45); Gioan lại còn nhỏ mọn, không cho những người nhân Danh Chúa mà trừ quỉ (x.Lc 9,49-50); các ông khác thì nhát đảm và ngu dốt.... Điều đó không khỏi làm chúng ta liên tưởng tới Giáo hội hiện nay, trong đó cũng có không ít các vị giám mục "cù lần", những linh mục, tu sĩ đầy những tính xấu...

Và cứ tiếp tục theo lý luận như trên, chắc chúng ta cũng phải tự hỏi : không biết trong khi thức suốt đêm để cầu nguyện, Chúa Giêsu có ngủ gật hay không mà lại chọn "được" 12 vị thế ấy ? Thánh Thần có đi vắng không để Giáo hội chọn lựa những thừa tác viên như vậy ?

Trong tâm thức người Kitô hữu hiện nay, hễ nói đến "thánh" là người ta nghĩ ngay đến ông thánh này bà thánh kia; hễ nói đến các thánh là người ta luôn phải ca tụng nhân đức, sự anh hùng, sự giỏi dang, đạo đức... như thể chính nhờ các đức tính ấy mà các vị ấy đã làm thánh. Người Kitô hữu rất ít để ý, không biết, hoặc biết nhưng chưa thấm sâu vào tâm thức rằng : tính chất "thánh" là của Chúa, và các "vị thánh" chỉ là được thông chia sự thánh thiện của Chúa. Lời kinh Vinh Danh trong thánh lễ tuyên xưng rằng "chỉ có một mình Chúa là Đấng Thánh".

Những điều đó phải chăng phản ảnh một tâm thức chung trong Giáo hội, một tâm thức nặng về luân lý và ít cảm nhận được tính cứu độ ? Đời sống đạo như thế giống như một cuộc leo núi luân lý và ai khỏe mạnh, khéo léo mới có thể lên tới những đỉnh cao. Nhiều khi các thánh được đề cao như thể chính vì các nhân đức mà các ngài được nên thánh, chứ không phải ơn thánh của Chúa đã giúp các ngài sống đức độ; như thể, các thánh đã anh dũng bảo vệ chân lý đức Tin, chứ không phải chính sức mạnh của ân sủng đức Tin đã giúp các ngài vượt qua gian khổ. Bao giờ người Kitô hữu còn nhìn các thánh như những mẫu gương "đạo đức" chứ không phải như chứng tá cho thấy sức mạnh cứu độ của niềm Tin, thì nguyên lý tác động trong sức sống của Giáo hội vẫn còn là nguyên lý luân lý chứ không phải nguyên lý cứu độ. 


1.2 Đâu là mầu nhiệm tuyển lựa ?

Nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn, không phải qua một cuộc thi cử, phỏng vấn... để xét duyệt năng lực nhưng chỉ do ý muốn của Ngài; và kết quả của cuộc tuyển chọn ấy không có vẻ thành công. Cũng thế, người ta vẫn có thể thấy Thiên Chúa tuyển chọn nhiều giám mục "cù lần", nhiều linh mục quan liêu, hống hách, nhiều tu sĩ quá lo bảo vệ nếp sống của mình... Sự thật đó thường khiến nhiều người khó chịu, bực dọc; và chắc hẳn cũng có người thầm nghĩ Thiên Chúa đã chọn lầm. Nhiều lần chúng ta có thể thấy, cứ bình thường, đáng lẽ ra Chúa phải chọn người này chứ không phải người kia...

Sự tuyển chọn của Thiên Chúa thật khó hiểu. Có một mầu nhiệm nào trong những việc tuyển lựa ấy? Thiên Chúa tuyển chọn theo Thánh Ý của Ngài, chúng ta cần khám phá ra mầu nhiệm tuyển lựa để nhận ra mầu nhiệm cứu độ lạ lùng của Thiên Chúa...


2. NẺO ĐƯỜNG LUÂN LÝ


2.1. Đặt vấn đề về nẻo đường luân lý

Tu nghĩa là sửa. Trước đây, nói chung, những tu sĩ và những người tín hữu muốn nên thánh đều phải quyết tâm hình thành nên con người trọn hảo của mình bằng một nỗ lực tu sửa, thay đổi tính tình, dẹp bỏ nết xấu, luyện tập nhân đức… Linh mục triều hoặc các chủng sinh, dù không phải là tu sĩ theo giáo luật[2], và tất cả những ai muốn vươn cao trên con đường nên thánh đều phải đi vào con người “tu đức” như thế.

Con đường ấy thật đáng kính trọng, nhưng không phải là không có những chỗ "lủng". Người ta thấy, không phải là hiếm, những người “đạo đức có củ" nhưng lại có những ứng xử thiếu nhân bản; những bậc đáng kính, chức tước đầy mình hoặc chu toàn một nếp sống đạo đức gương mẫu nhưng đôi lúc lại bộc lộ trong lời ăn tiếng nói, trong lập trường của mình, một cái gì khá kỳ dị, biểu lộ một cõi lòng ích kỷ sâu xa mà người ta khó có thể chấp nhận được, trừ khi là bao bọc chúng trong một lớp vỏ thiêng liêng. Đó là những “triệu chứng lâm sàng” của căn bệnh luân lý mà chúng ta có thể dễ dàng ghi nhận.

Ngược lại, nhận ra những chỗ lủng của nẻo đường luân lý, ngày này người ta lại đề cao một thứ “làm người trước khi làm thánh”. Giới trẻ ngày nay, nói chung, không mấy bận tâm đến nỗ lực tu sửa và tập luyện nhân đức; họ để thả trôi cuộc đời theo nhịp sống và thường lý sự để bào chữa cho thái độ bản thân, xuê xoa cho tính xấu hoặc những sai sót của mình. Đôi khi, người trẻ học hỏi được một vài lý thuyết “nhân bản” để củng cố lập trường, thái độ, phản ứng của mình với những người đi trước và cho thế là đủ. Họ mạnh dạn phê bình người khác, phê phán xã hội… mà ít nhận ra sai sót của chính mình. Không đủ can đảm thể hiện những nỗ lực của ý chí trong việc luyện tập nhân đức như người xưa, người ta lại tìm cách moi móc những khiếm khuyết để phê bình; không tin vào những bài học luân lý cổ xưa, người ta lại quá tin vào một vài tư tưởng, vài nguyên lý thời thượng của xã hội… Nhưng rồi, trong những lập trường đầy tính thần học hoặc triết-lý-sống như thế, người ta lại rất dễ bắt gặp một sự phê phán bất công, một lối sống dễ dãi; gặp thấy nhiều phong cách, thái độ chỉ biểu lộ nhu cầu khẳng định cái tôi của mình nhiều hơn là do một tinh thần sứ vụ hoặc xuất phát từ một cảm nhận giá trị nhân bản chân chính. Những thái độ ấy biểu lộ mối bận tâm bảo vệ cái tôi của mình nhiều hơn là sống trong chân lý hoặc mưu tìm lợi ích chung.

Thật ra, làm gì có chuyện “làm người trước khi làm thánh” ! Nếu tự mình làm người được thì có lẽ chúng ta cũng chẳng cần làm thánh; vì ơn cứu độ của đức Giêsu, trước tiên, là để giúp con người sống trọn vẹn vận mạng cuộc đời. Nói cách khác, chính vì không thể “làm người” cho ra người được mà người kitô hữu cần “làm thánh”, nghĩa là nhờ sự thánh thiện của Chúa để có thể tiến bước trên hành trình làm người.

Cả con đường tu luyện luân lý cũng như đường lối lý sự đều tỏ không thành công. Đường lối xưa thì đầy tính duy ý chí. Con đường của thế hệ ngày nay lại tỏ ra tính cách “duy lý”. Cả hai đường lối đó đều không đủ trầm lắng để nhận ra và khởi đi từ chính con người thật của mình. Nếu vết rạn nứt trong đường lối cũ là sự xung khắc giữa bản tính sâu xa và nỗ lực luân lý, thì vết rạn nứt của con đường lý sự lại là sự tách biệt giữa lý trí và tấm lòng, giữa "lập trường" và một trạng thái tinh thần không thấm nhuần giá trị nhân bản đích thực. Từ vết nứt ấy, thỉnh thoảng người ta lại thấy "lòi ra" cái ngu-đột-xuất, cái "bậy bạ" xuất hiện lúc không ngờ, cái sai trái mà ta không thể kiểm soát được…

Hai con đường ấy đối lập nhau, một bên thì thái quá, một bên lại bấp cập. Tình trạng ấy khiến cho những người "trẻ" chẳng phục người "già", mà người "già" lại càng không thể chấp nhận được "đám trẻ". Có lẽ chính vì thế mà cả những giá trị nhân bản cũng như những giá trị siêu nhiên đều không đủ sức mạnh chứng tá để tạo nên một tâm thức chung, một giá trị chung trong Giáo hội Việt Nam hiện nay. Phản ứng với giới trẻ, người già cũng không chân nhận được những giá trị thời đại; không thấy nét đẹp của đời sống “luân lý” những người già, đám trẻ lại càng coi thường việc sống “nhân đức”.


2.2 Thực trạng nẻo đường luân lý

2.2.1 Nẻo đường của cái tôi

Nẻo đường luân lý trước tiên là nẻo đường của “cái tôi”. Tất cả mấu chốt để giải quyết vấn đề đều qui lại trong cái tôi : chính tôi quyết định, chính tôi nỗ lực, và chính tôi thành công hay thất bại. Chính tôi phải chịu trách nhiệm hoặc tìm thấy niềm tự hào cho bản thân tôi :

“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).

Nẻo đường của cái tôi lù lù ra đó, thật ra, luôn là con đường cô độc và làm gia tăng thêm nỗi cô đơn trong phận người. Chính nẻo đường luân lý trở thành một gánh nặng và làm cho con người phải chịu đựng nỗi xao xuyến của phận người hơn hết, vì tự mình phải chịu trách nhiệm về vận mạng của mình.

Cô đơn trước gánh nặng của bản thân, người đi theo nẻo đường luân lý thường rất dễ bám vào những những “hành vi” cụ thể, hành vi thể xác hoặc tâm hồn, như một tiêu chuẩn đánh giá cụ thể để an tâm. Con đường luân lý đòi buộc người ta phải làm hoặc trách những điều cụ thể nào đó; rồi dần dần đồng hoá mình với những hành vi cụ thể ấy. Do đó, nẻo đường luân lý thường cũng đóng khung giá trị đạo đức trong những nghĩa vụ rõ ràng. Với những hành vi luân lý cụ thể, người ta có thể dễ dàng đo đếm, so sánh và xếp hạng. Trên nẻo đường ấy, thật khó có thể gạt bỏ khỏi tâm trí một sự đánh giá bản thân mình và đánh giá người khác. Mác-ta với tư cách là chủ nhà, đã chu toàn trách nhiệm tiếp khách một cách chu đáo, quá chu đáo ! Điều đó khiến cô an tâm về bản thân mình và sẵn sàng “sửa lỗi” cho Chúa:

“Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói : Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !” (Lc 10, 40).

Thật ra, nẻo đường luân lý như thế không có khả năng đụng đến cái tôi chân thật mà chỉ là một nỗ lực tô vẽ, trang điểm cho cái tôi của mình. Người đi vào nẻo đường luân lý thường không khám phá ra được nét độc đáo riêng của bản thân mình. Tiêu chuẩn luân lý là những tiêu chuẩn chung mà mọi người phải tuân theo. Người ta tìm cách đáp ứng những đòi hỏi bên ngoài của lề luật, bận tâm so sánh mình với người khác và khó có thể dừng bước, trầm lắng để nghe chính bản thân, trân trọng với cá tính, khuynh hướng riêng và hoàn cảnh riêng của mình. Trên nẻo đường luân lý, người ta không có khả năng tự sáng tạo cuộc đời dựa trên chính sự thật của bản thân mình.

Sống theo nẻo đường luân lý, con người giống như một kẻ đứng dưới nước sâu; chân không đụng đến mặt đất được mà đầu muốn vươn lên khỏi mặt nước, nên tay chân cứ phải quờ đạp. Con đường luân lý là con đường không muốn thua sút ai, nhưng không hoà giải được với chính mình và luôn trong tư thế sẵn sàng chống đỡ, phê phán, "đạp" người khác để bảo vệ cho đầu mình được vươn lên cao trước mặt người khác. Con đường luân lý ấy luôn luôn bấp bênh; người khác chỉ cần kéo nhẹ đôi chân quờ quạng, hỏng giò ấy là có thể làm sụp đổ tất cả công trình tu luyện. Con đường luân lý ấy luôn luôn phải so sánh, hoặc đấu đá với người khác để bảo vệ vị thế của mình.

2.2.2 Nẻo đường duy ý chí

Cách thức tập luyện nhân đức trên nẻo đường luân lý như thế thường dựa trên một nền tảng chung là "nhân đức chịu vậy"; nghĩa là người ta đã không tìm thấy giá trị nội tại, giá trị tích cực, giá trị "hữu thể", không cảm nhận được nét đẹp của hành vi luân lý mà chỉ “nhắm mắt” dùng nỗ lực của ý chí để thực hiện một khuôn khổ đã có sẵn; ráng gồng lên để chu toàn giới luật như một tiêu chuẩn bên ngoài chứ không tìm thấy niềm vui tự chính bản thân mình.…

Những nhân đức của nền “luân lý chịu vậy” chẳng những không hoá giải được những đam mê, những uẩn ức sâu xa trong lòng, nhưng chúng còn tạo điều kiện để người ta trốn vào một thứ an tâm giả tạo. Đàng khác, cách thức tập luyện nhân đức như thế để lại nhiều dồn nén khá nguy hiểm. Chúng ta có thể thấy những người “đạo đức” quá dễ dàng kết án người khác mà không thấu hiểu được những khó khăn của người khác trong sự cảm thông. Chúng ta cũng có thể thấy một số người, suốt cuộc đời, đã từng cẩn thận, chăm chút, lo lắng để thực hành một đời sống luân lý nghiêm cẩn. Thế mà, khi rơi vào một hoàn cảnh đau thương nào đó, một cơn bệnh, tuổi già, một sự thất bại lớn ... thì các vị ấy lại trở thành những xì-căng-đan lớn về chính những điều mà mình đã từng lên án.

Thật ra những cố gắng tập luyện nhân đức theo đường lối luân lý thường không có khả năng hoá giải, nhưng chỉ bao bọc và dồn nén những đam mê sâu ẩn trong tâm hồn; những nỗ lực tu sửa chỉ là những lớp hành vi hoặc của ý thức, hoặc của ý chí, nhằm bao bọc và xi mạ cho con người thật vốn còn đầy những khiếm khuyết, han rỉ ở bên trong. Con đường luân lý có nhiều nguy cơ rơi vào thái độ của những người Biệt phái và kinh sư mà Chúa Giêsu đã tố cáo, “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng” (Mc 7, 6); và Ngài khẳng định :

“Người nói : Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc aác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”(Mc 7,20-28).

2.2.3 Thái độ luân lý trong đời sống đức Tin

Thái độ luân lý không phải chỉ có trong đời sống của những người dâng hiến, tu sĩ và chủng sinh, linh mục triều và dòng, nhưng còn trong lối sống đạo phổ biến của người tín hữu. Phần lớn người kitô hữu sống đạo dựa trên “bộ xương sống” là Mười Điều Răn : xét mình xưng tội, chu toàn nghĩa vụ, phân biệt điều được phép và điều không được phép. Khá hơn một chút, người Kitô hữu cũng chỉ biết nỗ lực từ bỏ tội lỗi và lập công phúc cho cuộc sống mai sau.

Lý tưởng Kitô giáo thường bị giản lược vào một mô hình chuẩn, một khuôn khổ vô ngã, thật tròn trịa, thật chuẩn mực, thật hoàn hảo; hoàn hảo đến mức trở thành một khuôn khổ “siêu hình” bất biến. Theo quan điểm luân lý ấy, sống đạo không là gì khác hơn so chiếu đời sống vào mô hình chuẩn ấy để xác định đâu là tội và đâu là nhân đức, để cắt xén, để uốn nắn những chỗ lồi lõm của đời sống.

Lời giảng của các linh mục cũng như các sách bài giảng hàng tuần rất thường rơi vào thái độ “giảng luân lý”. Thay vì nhận ra sứ điệp lời Chúa như một lời công bố Tin Mừng, công bố việc Chúa làm, thì người ta lại chỉ rút tỉa những đòi hỏi con người phải làm; thay vì mở lòng để đón nhận sức sống và tình yêu của Chúa, thì người ta lại chỉ chú ý đến những quyết tâm của con người. Không nhận ra tính chất “mục vụ”[3] của các mầu nhiệm cứu độ, người linh mục lại chỉ lượm lặt những “bài học”, triển khai theo lối so sánh hoặc trong tinh thần hiếu kính để nhấn mạnh tới đòi hỏi luân lý đối với người Kitô hữu. Những thứ đòi hỏi và quyết tâm ấy được “sản xuất” liên tục, hết tuần này đến tuần khác, hết mùa này đến mùa khác, mà chẳng mấy lưu tâm đến thực trạng của từng cá nhân, khiến cho Kitô giáo trở thành nặng nề, không còn diễn tả được ý nghĩa tích cực và nét đẹp Kitô giáo. “Mệnh đề” căn bản của thái độ luân lý là “tôi phải…”. Quả thật có quá nhiều cái “phải” trong đời sống đức Tin Công Giáo tại Việt Nam.

Những quyết lệnh luân lý như thế trở thành những “biện pháp” đối phó, ngăn chận và cắt xén đời sống nhiều hơn là hướng dẫn và thông ban sinh lực sống. Khi bị qui định trong một lô các biện pháp như thế, cuộc sống trở thành rách nát, vụn vặt và không còn hình hài riêng; hành trình cuộc sống bị muôn ngàn “biển báo” cảnh giác, cấm đoán và người ta chỉ còn biết bước đi dò dẫm, luồn lách chứ không có được một sức sống hồn nhiên, mãnh liệt của Thần Khí.

Cách thức theo đuổi một đời sống đạo như thế trở thành như một cuộc thi tuyển, trong đó, việc công bố Tin Mừng Cứu Độ chỉ còn là “đề bài”, Tin Mừng trở thành “tài liệu học tập”, nỗ lực sống đạo giống như việc làm bài thi, với những giấy thi đã được rọc phách, để hy vọng một số điểm vượt qua mức trung bình….

Lời loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Đức Giêsu không phải chỉ là một bài học, một bài học luân lý thuần túy mà những người nghèo có ước muốn cũng chẳng thể sờ tới được. Tin Mừng ấy không phải là sự thách đố những nỗ lực luân lý của con người. Đạo Chúa không thể nào là con đường khó khăn mà chỉ những người được thừa hưởng một nề nếp giáo dục hoàn hảo, hoặc những người có tư chất tốt mới có thể đi theo được. Nếu người nghèo, nghèo hèn vốn sinh đạo tặc, mà không thể sống đạo Tin Mừng được, thì rất có thể đó không còn là đạo của Chúa Giêsu.

Lối sống đạo luân lý, một cách nào đó, biến Kitô giáo thành một trong các thứ đạo dạy "ăn ngay ở lành". Trong khi đó, nét đặc trưng của Tin Mừng cứu độ, có thể tóm lại, là “đạo cùng với Chúa Giêsu để đi con đường hoàn thiện như Cha trên trời”.

Tình trạng ấy, có thể nói, chính là tình trạng một Kitô giáo mất căn tính.


2.3 Giới hạn của nẻo đường luân lý

Khoa tâm lý ngày nay cho chúng ta biết rằng con người đã hình thành phần lớn nhân cách của mình rất sớm… thời gian còn lại dành cho con người lựa chọn, với tất cả một tâm hồn sáng suốt, thời gian ấy chẳng được bao nhiêu. Rồi những gì còn dành lại cho tự do của con người trước hoàn cảnh cũng chẳng dễ dàng gì…

Do vậy, trong quá trình sống, mỗi một con người đều mang theo mình cả một lịch sử : từ khi trong bào thai, hoàn cảnh gia đình, ảnh hưởng của môi trường, của trường lớp, của bạn bè…. Những điều ấy, khi con người bắt đầu biết ý thức và có thiện chí muốn tu sửa, thì đã trở thành những vết hằn sâu trong nhân cách, trong tâm hồn của con người rồi. Con người là mình, trước tiên, trong chính lịch sử của đời mình. Lịch sử ấy là những gì đã hiện thực, đã xẩy ra, đã tác động, đã được gieo vào đời; và người ta hầu như không bao giờ có thể gạt bỏ chúng đi được nữa. Con người không thể chối bỏ lịch sử của chính mình được.

Một số tư tưởng triết học cũng cho chúng ta thấy rằng, khi người ta đã gieo một điều gì vào trong thế giới, điều đó trở thành vĩnh cửu, và con người sẽ phải chịu trách nhiệm về nó trong vĩnh cửu. Điều đó không chỉ có nghĩa là một sự xét xử, ban thưởng hay hình phạt của một Thượng Đế tối cao, nhưng còn có nghĩa như một qui luật của cuộc sống, một qui luật có sức mạnh của nó để phục hồi sự cân bằng của vũ trụ…

Anaximandre nói tới sự "bất chính đối với nhau" và đòi "bồi thường và thoả mãn lẫn nhau". Empédocle nói tới hai nguyên lý chính yếu trong vũ trụ, "hận thù" là nguyên lý ly tán và "tình yêu" là nguyên lý kết hợp; đó là những nguyên lý mang tầm mức vũ trụ; Nietzsche thì vẽ nên một hình ảnh vũ trụ diễn tiến theo qui luật "qui hồi vĩnh cửu"…

Những cái nhìn như thế có thể cho chúng ta thấy phần nào một sự thực : những điều ta đã gieo vào trong cuộc đời thì không rơi vào quên lãng; và chúng ta cũng không thể đơn giản xoá bỏ, sửa đổi chúng cách dễ dàng, bằng một thái độ luân lý cá nhân hay sám hối "nội tâm"; nhưng còn phải chấp nhận qui luật nhân quả trong diễn biến của nó. "Gieo gió gặt bão" hay "gậy ông lại đập lưng ông"…

Quả thật, đối diện với những tầng sâu trong bản chất con người, đối diện với những qui luật mang tầm mức vũ trụ như thế, những nỗ lực có tính cách duy ý chí hoặc duy lý đều tỏ ra quá nhỏ bé và hời hợt. Những dữ kiện nói trên cho thấy tầm vóc của con đường tu sửa quả thật là chưa động được đến tầng sâu của nhân cách con người cũng như chưa hoá giải được những xung đột thâm sâu trong thế giới con người.

Trong cuộc sống bình thường, chúng ta cũng có thể nghiệm thấy rằng con người không dễ gì có thể sửa đổi tính tình, không dễ gì có thể gạt bỏ một cơn giận hay một sự thù hằn chỉ bằng quyết tâm của ý chí hay chỉ bằng một suy tư hay ho nào. Mặt khác, một sự nỗ lực sửa đổi như thế luôn bao hàm tâm trạng không chấp nhận chính mình. Chính điều này lại là nguồn gốc của biết bao nhiêu lệch lạc, xung đột trong cuộc sống con người.

Có lẽ con đường đích thực phải là : nhờ sự thánh thiện của Chúa (siêu nhiên) để có thể nên người hơn (nhân bản); theo đường hướng của thánh Thomas : "Ân sủngkhông phá hủy nhưng kiện toàn tự nhiên"[4]. Lập trường đó cho thấy : để con người có thể sống nhân bản, cần tới sự trợ lực của đời sống siêu nhiên; và một đời sống siêu nhiên đích thực phải thực sự làm tăng triển đời sống nhân bản của con người.


3. NHÌN TỪ GÓC ĐỘ NHÂN HỌC KITÔ GIÁO


3.1 Mạc khải về con người

Mười một đoạn đầu sách Sáng Thế có thể hiểu được là chính khoa "siêu hình học" của Thánh Kinh, trong đó, những vấn đề cơ bản của con người mọi nơi mọi thời được diễn tả bằng những câu chuyện thật ý nghĩa. Ta có thể tìm thấy một vài ý nghĩa cơ bản như sau :

Con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Do ảnh hưởng của triết học Hy Lạp, có giáo phụ đã giải thích con người giống hình ảnh Thiên Chúa ở chỗ con người có lý trí khôn ngoan. Quả thật, nhờ lý trí con người có khả năng tham dự vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa (Adong đặt tên cho muôn vật, St 2,19b). Tuy nhiên, đó không phải là điều chính trong ơn gọi và sứ vụ làm người; bởi vì, trước hết, việc đề cao lý trí khôn ngoan không hợp với não trạng của người sê-mít vốn coi trọng tương quan ngôi vị nhiều hơn. Ta còn thấy trong truyền thống Do Thái một sự úy kỵ sâu xa với kiểu khôn ngoan của các nền văn minh xung quanh (con rắn là loài xảo quyệt, cây cho biết điều thiện điều ác, Cain là kẻ định cư khôn ngoan… xc. 1Cr 117-31). Mặt khác, ta thấy ông Adong, khi đã phát huy hết khả năng lý trí của mình để thống trị muôn loài, lại cảm thấy cô đơn vì "không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng" (St 2, 20b). Chỉ khi gặp Evà, Adong mới cất lên tiếng reo vui biểu hiện sự thành đạt của phận người: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi" (St 2,23). Như thế, ta có thể hiểu rằng, lý trí khôn ngoan chỉ là một điều kiện cần thiết để con người được tự do đi vào tình yêu thương.

Ma quỉ là kẻ chống lại Thiên Chúa, thì cũng chống lại tình thương. Chính ma quỉ đã gieo vào thế gian một yếu tố hủy hoại, yếu tố chống lại Chúa yêu thương. Ta tạm gọi yếu tố ấy là sự ích kỷ. Một cách tổng quát và căn bản, ta có thể nói được rằng : tất cả mọi tội lỗi đều là ích kỷ; và tất cả mọi nhân đức đều là yêu thương :

 "Tất cả luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt 22,40).

Tựu trung, con người được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là con người thiết yếu được mời gọi sống với Thiên Chúa; nghĩa là con người có vận mạng "siêu nhiên" và chỉ có thể hoàn thành cuộc đời mình khi trở về với Thiên Chúa, khi thực hiện bản chất yêu thương đã được Thiên Chúa ghi khắc trong hữu thể của mình. Trong hiện trạng cuộc sống, tất cả vấn đề của con người có thể gồm tóm trong một cuộc đấu tranh giữa tình yêu và ích kỷ[5]. Như thế, ta cũng hiểu ra rằng sức mạnh, nguyên lý để con người sống cuộc sống này, sống bản chất và hoàn thành vận mạng của mình, không là gì khác hơn tình yêu thương.


3.2 Con người nên đẹp nhờ tấm lòng

Nếu người ta không thể từ chối được cái gì đã hoàn thành, thì người ta lại có thể "hoá giải" tính chất tệ hại của thực tại ấy bằng cách thêm vào đó những yếu tố mới. Thật ra, hoàn cảnh nào, tâm tính nào cũng có thể trở nên đẹp, khi ta biết đưa vào đó một tình yêu hoặc "một chút tấm lòng".

"Tấm lòng", đó là khả năng đón nhận người khác; hội nhập những vấn đề của người khác trong sự an hoà, bao dung, quảng đại, từ bi… Người có tấm lòng là người có khả năng "chạnh lòng thương" trước vấn đề của người khác. Hơn nữa, người có tấm lòng là người có thể "ở trong" tha nhân[6], có khả năng cảm nhận một vấn đề trong bối cảnh của cuộc sống, trong lịch sử của một con người, trong niềm liên đới và cảm thương đối với con người.

Với tấm lòng, con người vẫn luôn là mình trong chính lịch sử của mình. Nhưng nhờ tấm lòng, những tâm tính đã ăn sâu vào con người được định hướng, được thu gom trong tình yêu để hướng tới sự cảm thông và chia sẻ lẫn nhau. Với tấm lòng người ta có khả năng chấp nhận bản thân, chấp nhận cuộc đời, chấp nhận tha nhân. Tấm lòng có thể làm cho những điều giới hạn, sai sót, những tâm tính không sửa được lại có một nét độc đáo và dễ thương riêng. Nó làm cho con người tôi là tôi, và con người của tôi được hoàn trọn trong tình yêu. Với tấm lòng, người ta có còn thể chấp nhận tha nhân dễ dàng hơn; chấp nhận được cả khuyết điểm của tha nhân, chấp nhận và hướng tới một tình yêu thương vô điều kiện. Thái độ đó biểu lộ một cái nhìn minh triết : không cắt cuộc đời thành những mảnh vụn và nỗ lực uốn nắn hoặc phê phán, nhưng cảm được sự "liên lụy" và "hiệp thông" sâu xa.

Ở đây, điều quan trọng nhất không còn là nỗ lực sửa chữa theo kiểu uốn nắn, cắt tỉa, rèn luyện… nhưng là đón nhận, là chân nhận tất cả và qui hướng chung vào nguồn mạch chung, "nhuộm" chúng trong một mầu sắc chung của tình yêu thương. Hãy bỏ vào “nồi cháo” đời mình một chút “lòng”, nồi cháo ấy sẽ trở nên “ngọt”.


4. CỨU ĐỘ BẰNG TÌNH THƯƠNG

Chính vì thế, Thiên Chúa đã muốn cứu độ con người bằng cách ban cho con người một tình thương lớn lao hết hết mọi tình thương, tình thương của Đấng dám hy sinh mạng sống cho bạn hữu của mình :

"Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu"(Ga 15,13).

 Tình thương lớn lao ấy có năng lực giải thoát, có khả năng cứu độ con người :

"Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách" (1 Pr 2,18).


4.1 Khởi từ việc chấp nhận chính mình

Cái "vết nứt" căn bản bên trong của những con đường tu đức chính là tâm trạng không chấp nhận chính bản thân mình; và đồng thời cũng không chấp nhận tha nhân trong những giới hạn và sai sót của tha nhân.

Chính vì không chấp nhận cuộc đời mình, nên mỗi người thường phải sáng tạo nên biết bao nhiêu chiếc mặt nạ cho mình, những chiếc mặt nạ để dùng cho những hoàn cảnh khác nhau : người ta phải tỏ ra trí thức với người trí thức và rồi cố để đừng lòi ra cái dốt của mình; người ta phải tỏ ra nghiêm túc trong công việc trước mặt người khác do vị thế “cao cả” của mình v.v... Thế là người ta phải gồng lên để che mặt nạ, để giữ mặt nạ khỏi rớt xuống để tô vẽ thêm cho mặt nạ của mình. Những chiếc mặt nạ ấy sẽ dần dần trở nên những gánh nặng nề khủng khiếp đối với tâm hồn.

Chính việc hoà giải được mình với mình, nghĩa là chấp nhận thực tại của cuộc sống, chấp nhận giới hạn và khiếm khuyết của bản thân mình, có thể thực sự mang lại sự giải thoát khỏi những gánh nặng lớn lao của cuộc đời. Khi mối bận tâm lớn của ta không còn là đeo mặt nạ, khi ta bình thản được trước những khiếm khuyết của bản thân, khi ta không bị áp lực nhiều của những lời người khác khen chê, khi ấy, ta có thể bình an và vững vàng đảm nhận chính cuộc đời mình.

Nhu cầu khẳng định chính mình là một nhu cầu căn bản và chân chính của mọi người. Tuy nhiên, bình thường người ta thường chọn cách thức khẳng định mình bằng con đường vươn lên; xác định mình bằng vị thế trong xã hội, trong cộng đoàn, trang bị cho mình thêm những kiến thức, những tài năng; và thường vui mừng khi được người khác công nhận vị thế và tài năng của mình. Con đường ấy cũng khá bình thường. Tuy nhiên, cũng rất thường, nó lại kéo theo thái độ không dám thẳng thắn nhìn vào con người thật của mình. Người ta mập mờ về khuyết điểm và thói xấu của mình; người ta đau và giận khi bị người ta khui ra khuyết điểm và thói xấu; người ta lừa dối chính mình khi luôn luôn phải bận tâm bảo vệ “hũ mắm” trong bản thân mình.

Mặt khác, chính thái độ dòm ngó nhau, đánh giá nhau dựa trên bậc thang của luân lý khiến cho người ta lại càng bảo vệ và che chắn những khuyết điểm, thói xấu của mình nhiều hơn. Trong nhiều cộng đoàn tu trì, những người có trách nhiệm và anh chị em trong cộng đoàn không thể hiện đủ một sự cảm thông và đồng hành với anh chị em của mình ngay trong chính khuyết điểm và tật xấu, nhưng lại chỉ biết đánh giá nhau trong bậc thang của sự thăng tiến như thế. Điều ấy khiến cho mỗi thành viên đều sợ, sợ người khác và sợ chính bản thân mình; và điều ấy, dĩ nhiên, lại càng thúc đẩy bản năng phòng vệ của mỗi người thêm mạnh mẽ, thêm kiên cố. Cộng đoàn như thế không thể hiện được chiều hướng của nhiệm cục cứu độ

“Ai tiếp đón một em nhỏ như em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (Mt 18, 5)

Như thế, thay vì tu sửa để được chấp nhận và bắt người khác phải sửa đổi để được ta chấp nhận, có lẽ ta nên chọn con đường khởi đầu từ sự chấp nhận chính bản thân mình, chấp nhận lịch sử, chấp nhận tính tình, chấp nhận chính nết xấu của mình trước đã.

Không phải ngẫu nhiên mà Thalès đã nói điều khó nhất là "biết mình"[7]; không phải vô lý mà Socrate chọn cho mình câu châm ngôn "hãy biết chính mình". Cái khó nhất ấy và cái cần thiết ấy, khi chưa làm được, người ta dễ vạy vò trong tâm hồn và gây nên bao nhiêu điều trục trặc trong cuộc sống.

Cuộc đời của mỗi người là một tấm vải. Nếu tấm vải ấy đã được may thành chiếc quần đùi thì ta hãy an vui với chiếc quần đùi đẹp của mình. Ngược lại, nếu nhìn thấy chiếc áo sơ mi của người khác đẹp hơn, ta gỡ chiếc quần đùi của ta ra để may áo; rồi lại thấy chiếc áo đầm của người kia đẹp hơn nữa, ta lại bắt đầu tháo gỡ, cắt xén và may lại cuộc đời mình theo khuôn mẫu mới. Cuối cùng cuộc đời ấy chỉ còn là chiếc giẻ rách !


4.2 Trở nên bé mọn để hoà giải mình với mình

Con đường tu sửa chân chính phải khởi đầu bằng việc nhận thức rõ những khuyết điểm của mình. Rồi nhờ xác tín Chúa chấp nhận mình, ngay khi mình còn là tội nhân, để có thể hoà giải mình với mình. Nói khác đi, nếu biết nhìn nhận cách chân thực bản thân của mình, mỗi người đều có thể nhận ra cái nghèo của mình. Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi phó dâng gánh nặng đời mình cho Chúa để tìm thấy được “tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” :

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi em ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11, 25-30)

            Từ đó, người ta mới có thể hoà giải với tha nhân và tìm được một mặt bằng vững chắc để, nhờ Chúa và nhờ anh em, mà vươn lên trong tình yêu, trong tu đức, trong nhân đức…. Con đường này cần được khởi đầu vững chắc bằng thái độ dám chơi đùa với chính khuyết điểm của mình. Cần chân nhận bản thân mình trong giới hạn thật của mình để thoát được thái độ né tránh hoặc "ngụy tín" (J.P. Sartre); cần thâm cảm khuyết điểm của mình để không trút sự bực dọc lên tha nhân; và hơn hết, cần "mỉa mai" với chính bản thân mình (Kierkegaard) để không dồn hết năng lực cho những lời bào chữa, những phản ứng phòng vệ vớ vẩn. Phải chăng đó cũng chính là con đường của Thánh nữ Catarina khi Ngài chủ trương rằng điểm khởi đầu của đời sống tâm linh là biết mình trong ánh sáng đức Tin ?


4.3 Nhờ Chúa Giêsu để hoà giải với chính mình

Bình thường, phương cách để hoà giải mình với mình chính là tìm được một tâm hồn trong sáng, bản lãnh, trưởng thành. Tuy nhiên, điều ấy không phải là dễ ! Chỉ có những con người cao cả, những bậc đức độ anh hùng mới có thể thực hiện được (?).

Mặt khác, hầu hết những gánh nặng cuộc đời không phải là do những thách thức “bên ngoài”, mà là gánh nặng phải mang vác chính cuộc đời mình. Những thứ gánh nặng của cuộc đời luôn bao hàm hay dính liền với gánh nặng phải mang vác chính bản thân mình, vì phải chịu trách nhiệm, vì cô đơn trong trách nhiệm, hoặc vì phản kháng lại cuộc đời… Con người ta thường trốn tránh nỗi "xao xuyến" về bản thân mình, để qui tất cả những khó khăn trong đời mình thành những nỗi “sợ hãi" về những trục trặc bên ngoài mình; và người ta phải đổ tội cho đủ thứ yếu tố xung quanh. Chính cái gánh nặng của bản thân như thế lại là yếu tố làm gia tăng gấp nhiều lần những gánh nặng bên ngoài của cuộc đời.

Nhưng nếu người ta không thể dễ dàng chấp nhận được cuộc đời mình, thì người tín hữu lại được kêu gọi để cho Thiên Chúa chấp nhận chính mình. Khi Chúa Giêsu kêu gọi những người bé mọn, “những người vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng tôi”, Chúa Giêsu kêu mời mọi người sống huyền nhiệm “người nghèo của Giavê”. Đó không phải là một sự hoà giải với chính mình bằng thái độ anh hùng và sáng suốt của bản thân, nhưng là sự hoà giải nhờ nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho mình, nhận ra thánh ý nhiệm mầu “Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”, để cũng tìm thấy được niềm hân hoan lạ lùng như Đức Giêsu “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha”. Đây là con đường hoà giải với chính mình nhờ tương quan yêu thương, nhờ được chấp nhận.


4.4 Những mảnh đời tuyệt điệu

Có khi, đúng hơn là thường khi, một con người, chẳng mấy tốt lành hơn ai, những lại luôn buồn bực vì những thái độ của người khác. Trong khi chính mình bị phê bình, người ta vẫn không ngừng phê bình người khác; trong khi, thật ra, mình cũng chẳng hay ho gì hơn ai, người ta lại cứ luôn luôn có thể chê bai hay ít là khó chịu về những điều không hay của người khác. Ngẫm nghĩ ra ta thấy cuộc đời thật cũng lạ ! Mỗi người chúng ta đều có lúc thật "hồn nhiên" kêu ca người khác (người dưới với người trên); chửi rủa người khác (những người ngang hàng với nhau), quở mắng người khác (người trên với người dưới); có biết bao người vẫn luôn cằn nhằn, trách móc, than phiền, bực tức... về người khác, mà lại là bực tức về những chuyện mà chính mình đang vướng mắc và cũng đang làm bao người khác phải khổ tâm.

Hình như bài học "khó nhất" của cuộc đời là bài học chấp nhận người khác như là họ, một sự chấp nhận "vô điều kiện". Hình như thái độ của con người với nhau, bình thường, là thái độ đòi hỏi người khác. Mỗi người chúng ta vẫn thường làm một cuộc thi tuyển để "tuyển chọn" ra "người thân cận" của mình[8]. Cuộc thi tuyển ấy quả thật gắt gao hơn bất cứ một cuộc thi tuyển nào khác. Không dễ ai có thể vượt qua; càng không dễ có ai có thể giữ vững trình độ, giữ vững phong độ để ở lại mãi trong "trường học người thân cận" của tôi. Và có thể lắm, chính sự tuyển lựa gắt gao và cao cấp của "trường đại học người thân cận" này là nguyên nhân chính khiến cho người ta luôn thiếu "nhân sự", khiến cho đời người luôn cô đơn, khiến cho cuộc sống luôn khó chịu, khiến cho tâm hồn con người bị dằn vặt vì những nỗi khổ từ đủ phía, do mọi người. Làm sao ta có thể vừa lòng với người khác, khi mà "bệnh tật" là chuyện của con người; "cù lần" là thực chất của mọi người; mỗi người đều có cái lẩm cẩm của mình.

Nói thế, không có nghĩa là cuộc đời này không có "người thân cận" đích thực. Chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những mối tình vượt qua "sự đòi hỏi" của lẽ thường tình để biết chấp nhận nhau, nhất là chúng ta nhận ra có một mảnh đời thật là tuyệt diệu về vấn đề này : nơi gia đình, người ta có thể học được bài học mà không dễ ở nơi đâu có được, bài học chấp nhận nhau vô điều kiện. Trong gia đình, người ta được kêu mời chấp nhận nhau vì chính con người của nhau; chấp nhận nhau vì là chồng là vợ của mình, vì là anh em một nhà. Nhất là trong trường hợp cha mẹ với con cái : cha mẹ chấp nhận đứa con của mình bất cứ giá nào. Cha mẹ muốn con giỏi, muốn con ngoan, muốn con khỏe mạnh... Nhưng nếu con yếu đau, dốt nát và khó dạy, thì chúng vẫn là con, và cha mẹ vẫn thương con của mình như một con người không thể thay thế.

Tình yêu thương vô điều kiện không phải là lòng thương hại; vì thương hại là tình thương chỉ dành cho những người đau khổ, những người nghèo hèn. Người ta thường không dễ chia vui với người khác, nhưng lại dễ chia buồn với người khác, đó là lòng thương hại. Tình yêu vô điều kiện là yêu thương người khác như là họ; họ tốt, họ gặp may lành thì ta mừng; nhưng nếu họ có cù lần, họ bê bối thì ta cũng vẫn chấp nhận họ như là người thân của mình. Nhiều người cha, người mẹ quở mắng con cái và kêu lên rằng : mong cho chúng mày đi đâu khuất mắt... nhưng khi con bị tai nạn, ngã bệnh, hoặc bị giam trong tù, thì chính cha mẹ, bình thường, là những người đau đớn hơn ai hết, tìm đến chăm sóc, xách giỏ thăm nuôi. Đây là tình yêu vô điều kiện.

Cái mảnh đời tuyệt diệu ấy khiến cho đời người bôn ba trăm nẻo vẫn còn có chốn để trở về, có nơi để tâm hồn được nương tựa; khiến cho tình mẫu tử trở nên tình cảm sâu sắc nhất của con người; khiến cho ca dao về mẹ luôn là những áng văn chương phong phú và tuyệt diệu nhất của nhân loại.

Chính kinh nghiệm được chấp nhận trong đời sống gia đình giúp con người có thể sống thật với mình, bớt thái độ phòng thủ, bớt mặc cảm, bớt “đeo mặt nạ”.... Chính kinh nghiệm được chấp nhận “vô điều kiện” như thế giúp con người thoát khỏi nỗi sợ sâu xa, nỗi sợ về bản thân mình, nỗi sợ về những mối tương quan xung quanh mình. Những nỗi sợ như thế mang dáng dấp nỗi sợ của ông Adong và bà Evà trong vườn địa đàng, và nó là căn nguyên của biết bao trục trặc trong đời sống con người.

Hình như "bí quyết" để có thể chấp nhận người khác vô điều kiện, đó là coi người khác như là "của mình"! Cha mẹ không phải là những người luôn có thể chấp nhận người hàng xóm vô điều kiện, vì người ấy chưa phải là "của mình". Nhưng dù sao, trong gia đình, đó cũng là “những mảnh đời tuyệt diệu”.


4.5 Thiên Chúa chấp nhận ta "vô điều kiện"

Nhưng mảnh đời tuyệt diệu ấy, theo thánh Phaolô, lại mới chỉ là phản ảnh, là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa : “Vì lý do đó, tôi quì gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3,14); và nếu thực sự con người cần tới tình yêu thương vô điều kiện như thế; nếu thực sự tình yêu như thế là điều quí trọng nhất trong tâm khảm con người, trong cuộc đời con người, thì chúng ta cũng có thể nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận ta cách cao thượng, quảng đại, "vô điều kiện" hơn rất nhiều.

Chương trình giải phóng và cứu độ của Thiên Chúa, trước hết, lại chính là sự chấp nhận vô điều kiện của Thiên Chúa đối với con người, để nhờ sự chấp nhận của Thiên Chúa mà con người có thể hoà giải mình với mình; và nhờ đó mà hoà giải được với anh chị em của mình. Con đường đó chỉ có thể là con đường của tình yêu thương "vô điều kiện", qua đó Thiên Chúa chấp nhận ta, ngay trong tình trạng tội lỗi của ta.

“Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì, vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám hết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Phương chi bây giờ, chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của Người phải chết mà cho chúng ta được hòa giải với Người, phương chi bây giờ, chúng ta đã được hòa giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người Con ấy. Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa là niềm tự hào, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5, 6-11; xc. Rm 8,31-39; 1Ga 4, 9-10;hoặcGa 15, 1-15).

Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận ta vô điều kiện, đó là chân lý có thể mang lại sức mạnh giải thoát cho con người. Tình yêu thương như thế không có nghĩa là mù quáng, không phải là nguyên nhân của thói ỷ lại, nhưng là tình yêu thương có thể thực sự giúp con người vươn lên.

Trước hết, tình yêu thương đó làm cho con người tìm thấy bình an. Khi tôi được quí mến và được khen ngợi vì tài năng hay đức tính của mình, tôi biết rằng thế nào cũng có lúc tôi bị chê bai; vì tôi không thể nào giữ mãi được "phong độ" của mình, như một cầu thủ, như một đội bóng không thể nào mãi mãi ở đỉnh cao của tài năng. Nhưng nếu tôi được chấp nhận ngay khi tôi cù lần, ngay khi tôi ở trong vũng lầy, tôi biết rằng tôi được chấp nhận "vô điều kiện". Khi đó, không phải đức tính của tôi được chấp nhận, nhưng là chính con người của tôi.

Sự chấp nhận của Thiên Chúa như thế còn mang lại sự giải thoát cho con người khỏi nỗi cô đơn, thứ cô đơn đã tạo nên biết bao hậu quả tai hại trong cuộc sống con người, thứ cô đơn làm cho con người đeo mặt nạ, luôn phải gồng mình "tỏ ra" mình thế này thế kia; luôn phải cố gắng "chọn một lập trường" khác với người khác, thứ cô đơn làm cho con người phải lo lắng để có thể được người khác chấp nhận.

Hơn nữa, sự chấp nhận của Thiên Chúa có thể giúp người ta vượt qua được một thứ cô đơn mang tầm mức "siêu hình", vốn là "gia sản" của thân phận của con người bị cắt đứt khỏi tình yêu, bị thống trị trong tình trạng tội lỗi. Đây không phải chỉ là một sự cô đơn tâm lý, do thiếu sự hiện diện của người khác, nhưng là thứ "cô đơn" vì phải một mình chịu trách nhiệm về vận mạng đời mình.

Con người phải làm chủ chính mình và phải đảm nhận cuộc đời mình, phải chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình, phải bước đi bằng đôi chân của mình... Không ai có thể sống dùm, chịu trách nhiệm dùm cho "cái tôi" này cả. Điều đó là thật ! Quá thật ! hết sức đúng với thân phận con người ! Nhưng đó cũng là giới hạn căn bản của con người, giới hạn "siêu hình" của con người, giới hạn làm nên nguồn gốc mọi trục trặc trong đời sống của con người. Bởi vì con người, tự bản chất, là tình yêu, là tương quan; và con người luôn "nghe" trong căn cốt của mình lời kêu gọi thống thiết : sống tương quan với người khác, trở nên một với chính Thiên Chúa, là hình ảnh Thiên Chúa Ba ngôi đã được ghi khắc trong tâm hồn của mình.

Trong tình trạng cô đơn, nếu con người có cố gắng hết sức, thì cũng chỉ có thể thể hiện được hình ảnh một người anh hùng cô đơn theo kiểu "chủ nghĩa anh hùng"; đó là thái độ can đảm chấp nhận căn bản chính "thân phận dở dang" của kiếp người. Điều đó, phải chăng, là nét cao cả nhất của "chủ nghĩa nhân bản"? Nhưng, nét cao cả đó, đồng thời, cũng là nét bi tráng nhất của thân phận con người.

Những lời của Thánh Phaolô cho thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa đâu phải chỉ là sự trợ giúp bên ngoài, đâu phải chỉ là xuê xoa tình trạng khốn khổ của con người, những còn là một sự liên đới trách nhiệm ngay trong ngôi vị của con người; đó là hồng ân mà chúng ta đã được lãnh nhận trong bí tích Thánh Tẩy.

Thiên Chúa chấp nhận con người cách “vô điều kiện”, không có nghĩa là Ngài bằng lòng với tình trạng tội lỗi của con người. Ngược lại, chính kinh nghiệm được chấp nhận lại là một sức mạnh căn bản để con người sống theo đường lối và giới răn của Chúa, và chắc chắn cũng là nền tảng "nhân học" để thực hiện vận mệnh đời người. Thói ỉ lại xuất hiện do một thứ "tự do" phóng túng, coi thường và lạm dụng tình yêu của tha nhân, chứ không thể nào là hoa trái của tình yêu.


KẾT

Có lẽ chính vì phải "chọn lựa" những con người cù lần cho nên Chúa phải thức suốt đêm. Nếu cần chọn lựa những người ngon lành, thì Chúa chỉ cần một giờ là đủ. Nhưng trong mầu nhiệm tuyển chọn này, Chúa Giêsu đã cầu nguyện suốt đêm, vì tuyển chọn tức là chấp nhận, là chấp nhận vô điều kiện, tức là yêu thương cả những gì cù lần nơi các ông ấy; và đó mới là mầu nhiệm tuyển chọn trong tình yêu thương đích thực. Trong nhiệm cục cứu độ, Đức Giêsu không chỉ nêu lên những giá trị mới, Ngài còn thay đổi chính nguyên lý cứu độ.

Tội lỗi không thể làm cho người ta bị Thiên Chúa ghét, nhưng lại càng trở nên đối tượng được Thiên Chúa quan tâm hơn. Người chăn chiên dám bỏ chín mươi chín con khác để đi tìm con chiên lạc cơ mà. Chỉ có những đứa con “hoang đàng” không muốn trở về nhà, trốn chạy việc tìm kiếm của Thiên Chúa mới bị loại trừ.

Như thế, xác tín mầu nhiệm tuyển lựa của Thiên Chúa, chúng ta cũng nhận được sức mạnh để biết chấp nhận tha nhân nhiều hơn. Sống mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa trong cuộc đời nghĩa là cảm thông cuộc đời, cả trong tính cách cù lần cù lèo của nó; cảm thương cho cuộc đời con người, cũng như cảm thương cho chính cuộc đời mình.

Nhận ra sự bất lực của con người không có nghĩa là rơi vào tuyệt vọng. Việc nhận ra sự bất lực ấy, đối với người Kitô hữu, là cánh cửa mở ra với ơn cứu độ của Thiên Chúa, là bước đường để đón nhận với hết lòng trân trọng sự chấp nhận vô điều kiện của Thiên Chúa một cách sung mãn. Có thể nói được rằng, nét đặc trưng của kinh nghiệm cứu độ Kitô giáo là : "Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10b).

Chúng ta có thể thấy trong kinh nghiệm của Têrêsa Hài Đồng Giêsu, qua sự trình bầy của cha Bernard Bro, một lời chứng hùng hồn về “huyền nhiệm” chấp nhận mình nhờ được Thiên Chúa chấp nhận :

“Sự say mê khao khát Đấng-Là-Tất-Cả, giữ mình không vương tội nhơ, hy sinh tuổi thanh xuân trong dòng tu chiêm niệm, trải qua một cuộc đời khắc khổ để rồi chìm vào đêm tối của hư vô ! Thử hỏi ai có thể kham nổi một lộ trình như thế ?

Đối với Têrêsa, giờ của sự thật đã điểm để chị đảo ngược tất cả :

“Chúa chỉ cho tôi được nhìn thấy chân lý“ (C.J., 4.8.3). “Than ôi, tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ như trước kia, không tiến lên được chút nào. Tuy nhiên, tự nhủ như vậy mà lòng tôi vẫn hòa dịu, không phiền muộn. Nhận thấy mình yếu đuối hèn mọn là điều êm ái biết bao” (C.J., 5.7.1).

Tê-rê-xa đã khám phá ra khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa trong con người Đức Giêsu Kitô, Người đến với ta trong dáng vẻ yếu đuối, và như một kẻ hành khất, chờ mong được chúng ta tin cậy. Chị biết đã đến lúc phải cậy trông một cách toàn diện. Không phải để làm điều gì tốt, mà là để chấp nhận mình bị vượt qua mãi mãi bởi tình yêu vô biên đang ở trước mặt chị.

Đối với chị cũng như đối với người trộm lành, đối với thánh Phêrô, người phụ nữ Sa-ma-ri, cũng như đối với lớp người nghèo hèn và những kẻ tội lỗi, bước tiến vạn nan đã trở thành bước tiến dễ dàng (le pas de l' impossible est possible). Chính niềm tin đã kéo những cái tưởng là quá xa vời vào trong tầm tay của chúng ta.

Thái độ chấp nhận đau khổ mà lòng không chua xót, chấp nhận bị đè bẹp bởi mệt mỏi, bất tài, bất lực, và có lẽ bởi tội lỗi nữa, thái độ ấy là con đường dẫn đến tinh thần khó nghèo được Thiên Chúa ban cho mọi sự.

Trong một lúc Tê-rê-xa phá vỡ khá nhiều uy hiếp từ bao thế kỷ đã bóp nghẹt Kitô giáo trên đường phát triển, chúng từng đè nặng trên chúng ta từ thời Giáo hội nguyên thủy.

Nhiều thế hệ đã ngộ nhân rằng : hễ là tín đồ Đức Kitô thì bắt buộc phải oai hùng, phải thiện hảo, phải luyện cho mình lòng sắt đá giống bậc thần linh, noi gương trường phái khắc kỷ Hy Lạp hay Rô-ma... phải thiện hảo mới đến gần được Thiên Chúa. Mẫu người đó tất nhiên là cao quý, nhưng không đúng với tôn chỉ Tin Mừng.

Tê-rê-xa lớn tiếng cải chính ngộ nhận đó. Con đường nhỏ hẹp của thánh nữ mở ra, đón mời tất cả mọi người, từ người khao khát hy vọng cho đến kẻ tuyệt vọng. Thử thách của số mệnh có thể trở nên con đường băng qua đêm dài đen tối tiến ra ánh sáng, con đường của niềm tin, con đường tìm thấy Thiên Chúa.

Những đặc ân xưa kia xem như dành riêng cho tầng lớp được ưu đãi, cho những nhà thần bí được người đời trọng vọng, nay chị Têrêsa cho chúng ta thấy những diễm phúc đó được Thiên Chúa đề nghị ban phát cho khắp cả mọi người. Chính thế, lo âu, sợ hãi, cám dỗ, mệt mỏi của anh chị em, tất cả gánh nặng đó có thể trở nên con đường của Thiên Chúa.

Ở đây, Têrêsa gặp những kẻ nghèo khó nhất, tay trắng nhất, sa đọa nhất trong chúng ta, những kẻ mất hết điểm tựa. Đồng thời chị cũng gặp những người làm cách mạng lớn nhất, nhưng kẻ nổi loạn lớn nhất, những người chỉ muốn trông cậy vào sức riêng họ mà thôi”

Bernard Bro O.P. Niềm Cậy Trông Bất Khuất;
bản dịch của An-tôn Lê Văn Lộc, trang 170-172.


 


[1] Bài suy niệm này được phác thảo trong dịp giúp “tĩnh tâm” cho những em đang và đã vướng vào ma túy, vào ngày lễ hai thánh Simon và Giuda tông đồ, dựa theo Tin Mừng Lc 6,12-16 : "Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu gọi các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là tông đồ".

[2] Đối với người Việt Nam, tu sĩ hay chủng sinh, linh mục triều đều là người đi tu. Cách hiểu ấy không phải không "hợp tình", vì tất cả đều đi chung một nẻo đường tu sửa.

[3] Xc. Gặp Gỡ Chính Chúa, bài “Sống ý nghĩa Siêu nhiên” và bài “Sự Tự Do của Con cái Chúa”.

[4] ST I, q.1, a. 9, ad. 2.

[5] Xc. Rm 7,21-23; 8,13;5,17 tt.

[6] Ngôn ngữ triết học gọi là tham-thông.

[7] Điều dễ nhất, theo Thalès, là "cho người khác một lời khuyên".

[8] Xc. Lc 10,29b : "Nhưng ai là người thân cận của tôi ?".

 

 

 

 

 

 

   

 

 

 

 

“ĐẠO” THỰC DỤNG
 

Bệnh thực dụng không phải chỉ là căn bệnh của giới trẻ ngày nay, cũng không phải chỉ là thái độ của một số người trong cơn cám dỗ của nền kinh tế thị trường. Đây còn là căn bệnh có tầm mức nhân loại và chi phối sâu xa đời sống đức Tin Kitô giáo. Thực dụng là giản lược cái huyền nhiệm vào những thành quả tức thời; thực dụng là tìm những cách thức dễ dãi, cụ thể, rõ ràng để thực hiện vận mạng cuộc đời mình; và sâu xa hơn, thực dụng là sử dụng phương pháp đối với sự vật để thay thế cho thái độ gặp gỡ chân chính giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.

Căn bệnh này có vẻ “nhẹ tội”, nhưng thật ra, nó là căn bệnh chính, là nguồn gốc của mọi căn bệnh khác; nó là một dự phóng căn bản bao hàm thái độ từ chối tình yêu thương đúng nghĩa, từ chối liên lụy với nhau, từ chối đồng hành, từ chối hiệp thông, từ chối chấp nhận nhau vô điều kiện, từ chối một thái độ trung tín với nhau trên hành trình lịch sử cuộc đời.


1. CĂN BỆNH CỦA NGUYÊN TỔ

Thách đố này đã được diễn tả trong thái độ của nguyên tổ con người : Adong và Eva. Nguyên tổ được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa :

“Và Thiên Chúa phán : Ta hãy làm ra người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta”[1] (St 1,26; Xc. 1,27).

Khẳng định ấy không chỉ giới hạn trong một cơ năng riêng biệt nào đó của con người, như lý trí hay lòng yêu thương, nhưng bao hàm ý nghĩa rằng vận mạng của con người chỉ được thành toàn trong cuộc sống thân tình với Thiên Chúa. Đó là một hồng ân lớn lao của phận người. Tuy nhiên, vì mang thân xác bằng bụi đất (x. St 2,7), có trách nhiệm “canh tác và giữ vườn” (x. St 2,15; 1, 26b – 30), nên con người cần thực hiện vận mạng của mình qua thời gian, bằng những công việc hằng ngày của cuộc sống. Đó là cách sống đúng theo “qui chế hiện hữu” của con người. Hơn nữa, con người lại được Thiên Chúa mời gọi sống liên đới với nhau, người với người tìm thấy nơi nhau một sự “trợ giúp đương đối” (St 2, 20b-25). Như thế, vận mạng của con người chính là, qua từng ngày từng năm, sử dụng thân xác và vũ trụ để thiết lập tình thân giữa con người với nhau; đồng thời qua cách sống ấy mà đạt tới cuộc sống thân tình với chính Chúa. Con người được mời gọi để thể hiện “hình ảnh Thiên Chúa”, qua trung gian thân xác và vũ trụ, nghĩa là bằng chính cuộc sống thường ngày, qua một quá trình lịch sử, để xây dựng nên tình thân ái người với người, người với Chúa.

Đáng lẽ ra nguyên tổ cần thực hiện vận mạng cao cả ấy bằng thái độ “nhân bản”, nghĩa là tuân phục thánh ý Thiên Chúa, bằng sự trung tín hằng ngày, đón nhận và tự hiến trong tự do và qua một quá trình lịch sử lâu dài, thì Adam và Evà lại muốn chiếm đoạt ngay tức khắc vận mạng của mình bằng một phương thế thực dụng, mau chóng và không có tính nhân sinh : phương thức “ăn trái cấm”. Nỗi khát vọng Thiên Chúa được phú bẩm như một năng lực sống nhằm dẫn dắt suốt hành trình đời người một cách nhân bản, thì lại bị hoán đổi thành ý muốn được bằng Thiên Chúa ngay tức khắc; vận mạng cao cả của nhân loại được sống trong tình yêu lại bị biến chất thành tham vọng khẳng định mình bằng cách giành lấy quyền quyết định “biết lành biết dữ”, tự mình quyết định điều thiện ác cho bản thân mình; tình thân giữa con người với nhau đáng lẽ được trọn vẹn để thể hiện chính phẩm tính yêu thương của Thiên Chúa lại trở thành sự liên kết của mưu đồ ích lợi riêng...

Vấn đề chính trong tội nguyên tổ không phải là một hành vi xúc phạm đến uy danh Thiên Chúa, nhưng là hành vi phá hủy bản chất con người, con người từ chối nẻo đường sống tình yêu thương qua lịch sử từng ngày của phận người để đòi được mở mắt “nên như những Thiên Chúa” (xc. St 3,5). Tội nguyên tổ, trong bản chất, có lẽ không phải được suy diễn ra từ nguyên lý danh dự, như một sự xúc phạm đến uy danh Chúa; nhưng nằm trong chính thực tại của một thái độ vong thân vì đã đánh mất bản chất yêu thương của mình; tội ở đây chính là từ chối nẻo đường Thiên Chúa mời gọi để lựa chọn cho bản thân mình một nguyên lý thực dụng.

 
2. CĂN BỆNH CỦA NHÂN LOẠI

Dấu ấn tội lỗi ấy đã trở nên một vết hằn sâu trên hành trình làm người của nhân loại. Đáng lẽ con người được mời gọi để hoàn thành cuộc đời mình bằng nẻo đường yêu thương, nghĩa là một cách chính yếu bằng cách gặp gỡ, liên đới cụ thể với với những ngôi vị khác[2], bằng cách sử dụng thế giới như một phương tiện để diễn tả tình thương với nhau, thì con người lại muốn áp dụng những phương thế của thế giới không có tương quan ngôi vị để hoàn thành bản thân và để đòi hỏi người khác; con người đã biến phương tiện là nguyên lý sống.


2.1 Từ chối gặp gỡ và đồng hành

Con người vẫn luôn đứng trước cám dỗ muốn “đi đường tắt”, muốn loại trừ tha nhân ra khỏi hành trình cuộc đời, muốn “chiếm đoạt” và hoàn thành vận mạng của mình bằng những gì hoàn toàn thuộc về mình, hoàn toàn theo cách thế của mình. Thay vì an bình, tin tưởng đi vào lịch sử nghĩa tình, từng ngày sống thái độ tín trung, từng việc biết trao đổi, và nhất là biết nhận ra tính cách độc đáo riêng biệt của tha nhân để khẩn cầu, để tri ân tình thương của tha nhân, thì con người lại thường muốn một mình, dùng một phương thế có tính kỹ thuật, để thăng tiến bản thân và đạt tới mục đích đời mình.

Gặp gỡ và đồng hành với tha nhân quả là một chuyện rắc rối. Cuộc sống với tha nhân làm cho ta phải bận tâm nhiều chuyện : giận hờn, hòa giải, lo lắng, chiều ý, lễ nghĩa, liên đới, trách nhiệm … Đó là chưa kể những mối tương quan đấu tranh mà ta cần phải cảnh giác, khôn khéo, bản lãnh,... để nắm đàng chuôi. Triết gia J.P. Sartre không phải không có lý khi nói “Tha nhân là hỏa ngục”.

Trước bao nhiêu chuyện rắc rối như thế, người ta càng ngày càng có khuynh hướng muốn ổn định cuộc sống bằng hệ thống luật pháp chặt chẽ; càng ngày càng muốn thay thế những mối tương quan tình nghĩa bằng những dịch vụ tiện ích; càng ngày càng muốn tiêu chuẩn hóa tất cả mọi tương quan, thay vị tự thể hiện mình trong tương quan người với người. Sống trong xã hội hiện đại ngày nay, người ta cần hiểu biết các phương thức và khôn ngoan lựa chọn giải pháp chứ không cần những thái độ “lãng mạn” của tình người. Cuộc sống trở thành một kỹ thuật mà người ta có thể huấn luyện trong những khóa học cấp tốc.

Có một thời người ta lý luận rằng gia đình không còn giá trị cho cuộc sống con người hiện đại. Những người ấy cho rằng : xưa kia, người ta lập gia đình là để nương tựa vào nhau và củng cố sức mạnh cho nhau về nhiều phương diện; đồng thời khi sinh sản con cái, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng, người ta có thể cậy nhờ lúc tuổi già. Thế nhưng cách thức ấy hiện nay không còn hiệu quả. Thay vào đó, người ta có thể thuê người nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa; gửi tiền vào ngân hàng hoặc có những biện pháp ngăn ngừa trộm cắp khác; đóng tiền vào nhà dưỡng lão để an ổn tuổi già. Nhu cầu tình dục thì không khó giải quyết. Thế là người ta có thể vui sống với một con chó, hoặc con mèo thân thương của mình.

Phản ứng lại những đấu đá trong xã hội, một số người khác lại muốn trốn tránh mọi rắc rối, tìm an thân bằng cuộc sống cô liêu, không đua tranh, chẳng lụy phiền, không lý tưởng cũng chẳng tâm huyết gì. Chúng ta cũng thấy thái độ tương tự trong những lập trường minh triết của một số triết gia, một số tư tưởng thoát tục Tây phương và Đông phương : tìm sự thanh thản[3].

Tuy vậy, từ thái độ sống “kỹ thuật” của con người thời đại cho đến thái độ siêu thoát cao quí của những hiền nhân, chúng ta đều thấy một tính chất thực dụng chung. “Thực dụng kỹ thuật” và “thực dụng hiền triết” đều là từ chối gặp gỡ và đồng hành, đều là thái độ tự tìm thực hiện vận mạng của mình mà không cần đến tha nhân.

Con người chỉ có thể hoàn thành vận mạng của mình qua sự gặp gỡ và đồng hành. Bởi vì bản chất con người là yêu thương, nhưng không phải là tình yêu lãng mạn, bay bổng mà là một tình yêu thể hiện trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chỉ khi thể hiện vận mạng của mình theo như “qui chế hiện hữu” của con người, một hữu thể tại thế, một sinh vật sống trong thời gian và hình thành đời mình qua một quá trình lịch sử, thì con người mới thực sự biết yêu thương chân chính là gì.


2.2 Chết dí trong sự vật

Được làm chủ thế giới, đó là hình ảnh hiên ngang cao cả của con người. Con người tìm thấy niềm vui khi lao động, chiếm hữu và sử dụng muôn vật. Niềm vui đó làm cho nhiều người tưởng rằng tất cả sứ mạng của mình, tất cả ý nghĩa đời mình hệ tại việc thống trị, khám phá, uốn nắn và sở hữu thế giới sự vật. Nhưng đó lại chính là một mục tiêu có tính thực dụng.

Thật ra nhiệm vụ “đặt tên cho muôn vật” không phải là nhiệm vụ chính yếu của con người, vì chính khi Adong hoàn thành sứ mạng đặt tên cho muôn vật, ông không gặp được người đương đối tương xứng :

“Giavê Thiên Chúa đã phán : không tốt, nếu người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp đương đối với nó ... Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần người, người vẫn không gặp được sự trợ giúp nào đương đối” (St 2, 18.20).

Như thế, con người cần một bước nhẩy để chuyển từ niềm vui chiếm hữu và thống trị sang niềm vui gặp gỡ và hiệp thông giữa người với người, một bước nhẩy từ thế giới sự vật sang thế giới nhân sinh. Con người cần phải đạt tới một cuộc bừng tỉnh trước vũ trụ để nhận ra tầm quan trọng của tương quan ngôi vị giữa con người với nhau. Từ cuộc bừng tỉnh ấy, con người mới biết sử dụng vũ trụ sự vật như phương tiện để gặp gỡ nhau, biến những thành quả trên vũ trụ sự vật thành những món quà dâng tặng cho nhau để thiết lập tình người.

Thực dụng chính là tình trạng, thái độ chết dí trong thế giới sự vật; tình trạng không còn muốn vươn lên đến thế giới nhân sinh và thế giới siêu nhiên. Tình trạng ấy làm nghèo nàn phẩm chất người. Phẩm giá con người bị hạ thấp xuống hàng sinh vật.

Thái độ ấy càng biểu hiện mạnh mẽ hơn trong thời đại ngày nay, khi nhân loại muốn dùng kinh tế để thỏa mãn mọi nhu cầu, chỉ muốn dùng tài năng để “lập thân”. Với thái độ này, tất cả bản chất cao quí của con người bị biến thành một sinh vật kinh tế. Người ta tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu vật chất của mình, đánh mất những giá trị tinh thần, đánh mất phẩm chất tình yêu. Bao nhiêu những cuộc tranh giành quyền lợi, từ cấp độ thế giới đến cấp độ cá nhân; bao nhiêu nỗ lực vươn lên bằng cách đạp lên người khác đã và vẫn còn đang biến con người thành những sinh vật vồ mồi, xé nát thế giới tươi đẹp.

Chỉ khi vượt lên trên cái nhìn "duy nhiên" thực dụng để sống chiều kích nhân văn hoặc siêu nhiên, con người mới tìm thấy “môi trường sống” đích thực của mình; chỉ khi thoát khỏi thái độ thực dụng để sống thái độ trân trọng và chờ đợi, con người mới có thể sống với nhau trong tình nghĩa; chỉ khi nhìn thấy đàng sau sự vật bóng dáng những ngôi vị, con người mới có thể sử dụng sự vật như những người làm chủ; chỉ khi đặt sự vật trong mối tương quan ngôi vị, như là những chiếc cầu, như là những quà tặng, thì sự vật mới góp phần làm phong phú phẩm chất làm người chân chính.


2.3 Đối xử với tha nhân như sự vật

Thế rồi, khi thái độ làm chủ và thống trị thế giới trở nên một “thói quen” của nhân loại, thói quen khiến người ta thích áp dụng dụng cụ để thống trị muôn vật vào những mối tương quan ngôi vị, tương quan giữa con người với nhau và tương quan với Thiên Chúa, thì con người lại rơi vào một phương thức sống có tính thực dụng. Con người biến mối tương quan ngôi vị trở thành mối tương quan thống trị, chinh phục, quyền lực. Điều ấy đã được tuyên án sau khi nguyên tổ phạm tội :

“Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi” (St 3,16).

Với phong cách này, con người trở nên kẻ thích đi “con đường một chiều”, nghĩa là tìm cách uốn nắn thế giới theo ý của mình mà đánh mất đi một sự nhạy bén trong thái độ lắng nghe, đánh mất đi sự sẵn sàng để đón nhận tha nhân và chiều ý tha nhân, cần thiết và khẩn cầu tha nhân như điều không thể thiếu cho bản thân mình. Chiều hướng phát huy động lực chỉ còn là từ phía chủ thể tới đối tượng, những phản hồi đều bị tắc nghẽn.

Biểu hiện rõ rệt nhất của tình trạng ấy là khát vọng quyền lực. Người ta luôn đòi hỏi sự thay đổi của người khác theo ý mình mà không biết chờ đợi và trân trọng tha nhân như một chủ thể tự do và độc đáo; người ta muốn thấu hiểu trọn vẹn để làm chủ người khác chứ không biết chiêm ngắm và thán phục; người ta tìm đủ cách để uốn nắn, cắt tỉa, vặn vẹo tha nhân cho bằng được. Thế nhưng, thái độ độc tài ấy không bao giờ làm thỏa mãn khát vọng gặp gỡ chân chính. Do đó, người đi vào nẻo đường ấy càng ngày lại càng muốn gia tăng sự thống trị, tăng cường thêm sự đàn áp để thực hiện cho được ý muốn cá nhân của mình. Chính những nhà độc tài, muốn sử dụng người khác như dụng cụ, đã đi vào nẻo đường này để rồi càng ngày càng độc ác hơn. Đó là nẻo đường cụt, vì tha nhân chẳng thể bao giờ luôn luôn thực hiện đúng ý mình hoàn toàn cả.

Tất cả những thái độ thực dụng, mục tiêu thực dụng và phương cách thực dụng đều không bao giờ có thể đi đến gặp gỡ và hiệp thông để có thể cất tiếng reo vui :

“Và nó đã nói : Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đội danh là “đàn bà” vì đã được rút tự “đàn ông”. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác” (St 2,23)


3. NHỮNG CƠN CÁM DỖ ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU


3.1 Nẻo đường dễ dãi

Khi bắt đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã trải qua một loạt các cám dỗ của Satan. Những cám dỗ này không phải chỉ là những cám dỗ lặt vặt liên quan đến của ăn cái mặc, một chút tự ái hoặc những đam mê xấu của đức Giêsu, nhưng chính là những cám dỗ tinh ranh của Satan, cám dỗ về những cách thức thực hiện chương trình cứu độ khác với chương trình của Chúa Cha. Cám dỗ biến hòn đá thành bánh, đó là cám dỗ dùng việc thỏa mãn những nhu cầu vật chất để chinh phục con người; cám dỗ nhẩy từ thành thánh xuống, đó là cám dỗ về cách thức làm những điều bí nhiệm, những phép lạ tỏ tường để dẫn dụ lòng tin của người tín hữu; và cám dỗ quyền lực, đó là cách thức dùng quyền bính để thiết lập Nước Trời, dùng một tổ chức cai trị, dùng những biện pháp bắt buộc... Những nẻo đường ấy thực sự là những nẻo đường dễ dàng rất nhiều cho sứ mệnh cứu độ Đức Giêsu, so với nẻo đường vâng ý Chúa Cha để chịu chết vì yêu thương con người, vì chúng không cần đến sự đáp trả tự do, thái độ tự nguyện, không cần đến lòng tín trung của con người. Dostoievsky diễn tả thái độ thực dụng tầm thường ấy qua miệng viên Đại Pháp Quan Tôn Giáo nói với Chúa Giêsu như sau :

“Đáng lẽ chiếm lấy tự do của con người thì Chúa lại cứ mở rộng tự do thêm mãi ! Hay là Chúa quên rằng con người quý trọng sự yên ổn và thậm chí cả cái chết hơn là tự do lựa chọn trong sự nhận thức thiện ác ? Đối với con người không có gì hấp dẫn hơn tự do cho lương tâm, nhưng cũng không có gì khổ ải hơn. Thế mà thay cho những nguyên tắc nền tảng vững chắc để làm cho lương tâm con người mãi mãi yên ổn, Chúa lại chọn tất cả những gì là phi thường, bí ẩn và vu vơ, tất cả những cái không vừa sức con người, vì vậy Chúa hành động như thể hoàn toàn không yêu họ, thế mà Chúa đã hiến cả sinh mạng của mình cho họ đấy ! Đáng lẽ chiếm lấy tự do của con người, Chúa lại cứ tăng thêm mãi lên và làm cho thế giới tinh thần của họ chồng chất thêm mãi những dằn vặt vì tự do. Chúa muốn con người yêu tự do, để họ tự do đi theo Chúa, bị lôi cuốn bởi sức hấp dẫn của Chúa. Thay cho luật pháp cứng rắn cổ thời, con người từ nay với trái tim tự do của mình, phải tự quyết định cái gì là thiện, cái gì là ác, mà chỉ lấy hình ảnh của Chúa trước mắt để định hướng cho mình. Nhưng chẳng lẽ Chúa không nghĩ rằng con người rút cuộc sẽ chối bỏ và thậm chí bài bác cả hình ảnh của Chúa và sự thật của Chúa, nếu như họ bị đè ép dưới một sức nặng khủng khiếp là sự tự do lựa chọn ? Cuối cùng họ sẽ la lên rằng sự thật không phải ở nơi Chúa, vì không thể nào đặt họ vào tình cảnh bối rối và dằn vặt hơn là Chúa đã làm, Chúa đã để lại cho họ biết bao lo âu và những nhiệm vụ không thể giải quyết nổi...” [4].


3.2 Nẻo đường coi thường con người

Những cách thức dễ dãi của Satan, thực chất, là thái độ hạ giá phẩm chất làm người của người tín hữu. Theo cách thức của Satan, đương nhiên đức Giêsu chấp nhận coi con người chỉ là những kẻ hèn mạt, dễ bị các nhu cầu vật chất chi phối, dễ bị thu hút bởi những gì hào nhoáng bên ngoài, thích ăn sẵn một cách nô lệ. Cám dỗ của Satan không là gì khác hơn đề nghị những phương thức thực dụng, dễ dãi để không còn những rắc rối của cuộc phiêu lưu trong mối tương quan ngôi vị.

Quả thật, Satan đã hết sức tinh ranh trong những cám dỗ này. Chỉ cần loại trừ được sự tự do của con người trên hành trình đức tin là có thể phá hủy được toàn bộ chương trình cứu độ của Chúa Giêsu. Không có tự do, con người không có khả năng yêu thương, không còn có thể được mời gọi đi vào nẻo đường yêu thương, và không có cách nào truy nhận Thiên Chúa như là chính Ngài, một Thiên Chúa yêu thương.

Cám dỗ của Satan chẳng những phá hủy nhiệm cục cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, nhưng còn “sửa lại” chính chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi ấy, con người không thể hiện được hình ảnh Thiên Chúa đã được ghi khắc trong bản chất người, nhưng biến thành những sinh vật giữa muôn ngàn sinh vật khác.

Con người không chỉ “là người”, nhưng còn phải “làm người”. Từ yếu tính “là người” cho đến phẩm chất “làm người” là cả một hành trình khó khăn, chênh vênh, nhưng cũng đẹp đẽ và hiên ngang biết bao. Hành trình ấy không thể theo chiều hướng đi xuống cách dễ dãi để trở nên như các sinh vật khác; chẳng phải chỉ là một đường ngang bế tắc, bít bùng; nhưng phải là hành trình siêu việt có khả năng vươn tới ngôi vị con người và tới một Thiên Chúa ngôi vị.


4. VẬN MẠNG CON NGƯỜI LÀ GẶP GỠ YÊU THƯƠNG


4.1 Vận mạng con người

Con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, đó là con người được mời gọi thể hiện vận mạng của mình trong sự gặp gỡ, yêu thương giữa con người với nhau và với chính Chúa. Công Đồng Vatican II đã khẳng định điều đó như sau :

“Vậy con người là gì ? Con người đã và còn đang đưa ra nhiều quan niệm về chính mình, nhưng quan niệm khác nhau và đôi khi trái ngược nhau. Theo những quan niệm đó, thường con người tán dương mình như một mẫu mực tuyệt đối hay lại chê bai đến độ tuyệt vọng, từ đó con người hoài nghi và lo lắng. Thông cảm sâu xa được những khó khăn này, Giáo hội, vì được Thiên Chúa là Đấng mạc khải dạy dỗ, có thể đem lại câu giải đáp cho những khó khăn ấy, nhờ đó diễn tả được thân phận đích thực của con người, giải bày những yếu hèn, đồng thời có thể nhìn nhận xác đáng phẩm giá và thiên chức của con người.

Thực vậy, Thánh Kinh dạy rằng con người đã được tạo dựng ‘theo hình ảnh của Thiên Chúa’ có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo Dựng mình, được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất để cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa, vì ‘thế nhân là chi để Ngài nhớ đến? Hay con người là gì để Ngài phải bận tâm ? So với thiên thần Ngài có để cho thua mấy tí. Vinh dự huy hoàng là triều thiên Ngài ban tặng. Ngài cho thống trị các kiệt tác tay Ngài làm, muôn sự Ngài đã đặt dưới chân’ (Tv 8,5-7).

Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc; bởi vì từ khởi thủy ‘Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ’ (Stk 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng mình” (MV 12,b,c).

Như thế, phẩm chất người, một cách chính yếu, không tùy thuộc vào khả năng của lý trí để thống trị muôn vật, nhưng nằm trong những thái độ của con người đối với Chúa và với nhau. Nói cách khác, “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8b), nên con người được sáng tạo nên giống Chúa cũng không thể là gì khác hơn tình yêu. Do đó mà tất cả giới răn của Chúa cũng chỉ tóm lại trong giới răn “Mến Chúa yêu người“ (xc. Mt 22,34-40), và như thánh Phaolô nói “yêu thương thì chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,10b), Thánh Gioan nói “Ai yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng” (1 Ga 2,10), và ngược lại “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8a).

Tất cả những điều đó cũng là lời khẳng định của Thánh Kinh về bình diện phẩm giá của con người, mà từ đó ta có thể xác định được khía cạnh tương quan ngôi vị như một nét căn bản.


4.2 Hành trình gặp gỡ

Mối tương quan ngôi vị bao hàm ý nghĩa là : sống là sống như một chủ thể đối diện với một chủ thể khác; và khi con người thiết lập nên được mối tương quan chân chính với ngôi vị khác, mối tương quan yêu thương chân chính, nghĩa là, người này với người kia, phải biết khẩn cầu nhau như một chủ thể độc đáo không thể thay thế, thì khi ấy, vận mang con người mới được hoàn thành. Triết gia Gabriel Marcel (1889-1973) cho ta một vài “tiêu chuẩn” như sau :

- Chỉ có sự gặp gỡ của hai chủ thể chứ không có sự gặp gỡ giữa chủ thể và đối tượng. Như thế ta chỉ đạt đến tha nhân nhờ sống với chứ không phải bằng tư tưởng hiểu biết. Sự gặp gỡ là chân thực khi ta coi tha nhân như một “anh/chị” (ngôi thứ hai) chứ không phải một “hắn” (ngôi thứ ba). Hơn nữa, với một chủ thể ta phải biết chờ đợi và hy vọng chứ không phải thái độ xăm soi khám phá.

- Như thế, sự gặp gỡ chân chính bao giờ cũng phải là một sự dấn thân, tức là đưa chính bản thân mình vào mối tương quan như một cuộc phiêu lưu. Một cuộc dấn thân như thế chỉ có thể là dấn thân cho tha nhân mà thôi, không bao giờ là sự dấn thân cho sự vật. Một sự dấn thân chỉ vì lý tưởng của chính bản thân mình mà thôi cũng vẫn không thể đạt đến sự gặp gỡ đích thực.

- Cuối cùng, thái độ dấn thân ấy đưa đến thái độ truy nhận tầm quan trọng của tha nhân đối với bản thân mình. Thái độ ấy bao hàm một sự khẩn cầu đối với tha nhân, và chỉ có thái độ khẩn cầu mới mở đường cho tình yêu đích thực; bởi vì tình yêu bao giờ cũng là một sự bổ túc nhân vị cho nhau chứ không phải chiếm hữu, thống trị hay chỉ là một sự phát triển bản thân mà thôi. Khi đó, ta tìm thấy cái chúng ta như chân trời rộng mở cho hữu thể của mình.

Không có cách nào khác, hành trình của đời người phải là hành trình dấn thân, nghĩa là đi vào cuộc phiêu lưu với những chủ thể khác. Chính trong hành trình ấy, cùng với niềm trân trọng, với thái độ khẩn cầu tha nhân, con người tìm gặp được chính mình.


5. NHỮNG LỆCH LẠC TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN KITÔ GIÁO

Trong đời sống đức Tin của người Công giáo Việt Nam hiện nay hiện nay, chúng ta dễ thấy tinh thần so đo tính toán vụ lợi, thái độ nệ luật, lối sống vị luân lý… như là những biến hóa của thái độ thực dụng. Những lối sống này luôn là những cách thức con người tìm an toàn cho bản thân, biến sứ mệnh đời mình thành một con đường dễ dãi, con đường quay về bản thân mình chứ không phải con đường liên đới, hiệp thông và chiều ý nhau trong tình yêu thương chân chính.

Điều nguy hiểm hơn là chúng ta có thể thấy mầu sắc thực dụng ấy trong hầu hết những điểm trọng tâm của đời sống đức Tin Kitô giáo hiện nay :

- Người Kitô hữu chỉ coi thái độ của con người trước mạc khải, luôn là mạc khải chính Chúa như sự chấp nhận những chân lý siêu vời, và cần phải nhắm mắt tin nhận để được lên thiên đàng;

- Người Kitô hữu chỉ đón nhận ân sủng như là những sự vật, nghĩa là những món quà từ Thiên Chúa mà không còn khả năng nhận ra “món quà” chính yếu là chính Đấng Ban ân sủng, tìm kiếm “ân sủng thụ tạo” mà quên mất “ân sủng bất thụ tạo”[5].

- Người Kitô hữu tham dự các bí tích như là đến với những “máy ban ơn phúc” chứ không phải sống lại giao ước ngôi vị giữa bản thân mình và chính Chúa;

- Người Kitô hữu Công giáo đọc lời Chúa như là những bài học luân lý chứ không mấy khi nhận ra Lời Chúa là lời ngỏ với chính bản thân; và việc đáp lại lời ngỏ của Ngài làm nên một lịch sử nghĩa tình;

- Người Kitô hữu giữ đạo chỉ là giữ giới răn, và giữ giới răn như một sự chịu vậy, nghĩa là không sống được thái độ tự do của con cái Chúa, nhưng là tinh thần nô lệ.

- Người Kitô hữu mong lên trời để hưởng mọi sự vui sướng chứ không phải để được sống trong tình yêu Thiên Chúa.

- Người Kitô hữu cầu nguyện chỉ là xin ơn chứ không phải một sự trao đổi thân tình như hiến tặng cho Chúa chính tâm hồn của mình.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể nói rằng, tất cả những căn bệnh trầm kha trong đời sống Giáo hội Công giáo Việt Nam, “đạo” sinh hoạt, “đạo” hiếu kính, “đạo” thiêng liêng, “đạo” luân lý đều là những biến thể của căn bệnh chính yếu, “đạo” thực dụng. Vì không gặp gỡ chính Chúa, người Kitô hữu dừng lại ở thế giới sự vật và loay hoay ở mức độ sinh hoạt, mức độ danh giá, mức độ thế giới “thiêng liêng” và mức độ hành vi luân lý.

 Những thái độ ấy biến đời sống đức Tin trở thành những khuôn khổ cứng đọng mà người ta phải tuân giữ cách “nghiêm nghị”. Vì thế, người Kitô hữu sống đạo không tìm thấy hạnh phúc của tình yêu thương mà chỉ thấy gánh nặng và sợ hãi. Có quá nhiều cái “phải” trong đời sống Kitô giáo; thậm chí có sách nghi thức còn viết rằng : “Anh chị đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, giờ đây, anh chị còn phải lãnh nhận một bí tích khác nữa là bí tích Thêm Sức”. Đúng là các anh chị phải lãnh nhận bí tích Thêm Sức thì sau này mới có thể lãnh bí tích Hôn Phối hay Truyền Chức; nhưng đó là quan điểm hoàn toàn vụ luật. Những thứ “phải” ấy phần lớn đều biểu lộ thái độ nô lệ cho sự vật, nô lệ nguyên tắc, nô lệ lề luật chứ không phải thái độ gặp gỡ chính Chúa và hiên ngang làm chủ mọi sự vật để dùng chúng làm phương tiện diễn tả tình nghĩa với Chúa. Nhiều vị hữu trách trong Giáo hội vẫn trình bày đời sống đức Tin với đầy dẫy những nghĩa vụ, những cấm đoán. Đời sống của người tín hữu Việt Nam chỉ còn có “Mười Điều Răn” mà không có “Bẩy Ơn Thánh Thần”.

Chính những thái độ ấy phá hủy hạt nhân căn bản của Kitô giáo và tạo nên một sự khủng hoảng căn tính trong đời sống đức Tin. Bởi vì người Kitô hữu đã không tìm thấy nét đẹp và niềm tự hào của con cái Chúa như ý nghĩa chân chính của niềm tin có khả năng nuôi dưỡng trọn vẹn đời sống.


KẾT

Cha mẹ thương con cái và diễn tả tình thương ấy bằng cái bánh, món đồ chơi, chiếc áo mới ... Đứa con nào chỉ thấy đồ chơi, chỉ thấy bánh kẹo, chỉ thấy áo quần và so đo tính toán trên những sự vật ấy, sẽ có nguy cơ trở thành đứa con hư. Ngược lại, đứa con nào cảm nhận được chính bản thân cha mẹ, chính tình thương cha mẹ qua những tặng vật ấy, thì có nhiều cơ may nên người. Những đứa trẻ thực dụng sẽ dễ trở thành những kẻ suốt đời hưởng thụ và đòi hỏi. Những đứa trẻ sống tình người sẽ dễ dàng tìm thấy động lực và ý nghĩa cho hành trình cuộc đời. Đời sống đức Tin Kitô giáo cũng không ra ngoài quy luật đó.

Hơn nữa, tất cả những điều tuyệt hảo nhất của Kitô giáo đều diễn ra ở tầm mức tương giao ngôi vị. Đánh mất tầm mức này cũng là đánh mất chính bản chất Kitô giáo. Những sai lệch trong hầu hết mọi nét chính yếu của đời sống đức Tin Kitô giáo[6] như thế có lẽ không phải là một chuyện tình cờ, mà chính là nguy cơ rơi vào cơn cám dỗ của Satan đối với Giáo hội của Chúa Kitô.


Con CỪu đi LẠC

Dụ ngôn dành cho những nhà giáo dục tôn giáo

Một con cừu thấy một khe hở ở trong hàng rào nên đã lách mình đi qua. Nó đã phiêu lưu khá xa và lạc mất đường về. Bấy giờ nó nhận thấy một con chó sói đang đuổi bắt. Nó cong lưng chạy nhưng con chó sói vẫn rượt theo cho tới khi người chăn cừu xuất hiện để cứu nó và âu yếm đem nó về chuồng.

Mặc dù nhiều người khuyên bảo, người chăn cừu không chịu đóng một miếng ván vào khe hở hàng rào.

Anthony de Mello, Như Tiếng Chim Hót,trang 150-151


 


[1] Những trích dẫn sách Sáng Thế trong bài này lấy từ bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn, Dòng Chúa Cứu Thế.

[2] Theo định nghĩa của Boèce (480-525), được triết học Kinh viện sử dụng, ngôi vị là : bản thể cá thể thuộc bản tính có lý trí. Nói cách đơn giản, con chó, con mèo… chỉ là những cá thể; nhưng con người, thiên thần, Thiên Chúa (Thiên Chúa của Thánh Kinh) là những ngôi vị. Ngôi vị có lý trí suy tư (nhất là suy tư giá trị), có ý muốn và có tự do quyết định. Trong bài này dùng nhiều từ “tương quan ngôi vị”, được hiểu là mối tương quan giữa các ngôi vị, thuộc bình diện ngôi vị, có tự do, suy tư, ý muốn…

[3] Chẳng hạn những học thuyết triết học Hy Lạp sau thời kỳ của Aristote đều nhằm tìm cái ataraxia, sự thanh thản; nhờ thái độ tự chủ (phái Khắc Kỷ) và hồn nhiên (Épicure), không vướng bận, không lo sợ, không đòi hỏi điều gì quá sức mình…

[4] Fiôdor Dôxtôepxki, Anh Em Nhà Karamazôp, Chương V, “Viên Đại Pháp Quan Tôn Giáo”, bản dịch của Phạm Mạnh Hùng, Nxb. Văn Học, Hà Nội 1989, trang 78-80.

[5] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, Gặp Gỡ Chính Chúa, bài Ân Sủng.

[6] Xc. Nguyễn Trọng Viễn O.P. “Gặp Gỡ Chính Chúa” hay “Hành Trình từ Thái độ Thực dụng đến sự Tự do của con cái Chúa”.