CẬY TRÔNG BẤT CHẤP TUYỆT VỌNG
NHỜ TIN VÀ YÊU
( REMERCIER DIEU D’ÊTRE SANS ESPÉRANCE )
PHẦN II
SỰ CÁO CHUNG CỦA NẾP SỐNG KHẮC KỶ MÀ MỌI NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC MỜI GỌI
Say mê khao khát Đấng-Là-Tất-Cả, giữ mình không vương tội nhơ, hy sinh tuổi thanh xuân trong một dòng tu chiêm niệm, trải qua một cuộc đời khắc khổ để rút cục chìm vào đêm tối của hư vô ! Thử hỏi ai có thể kham nổi một lộ trình như thế ?
Đối với Tê-rê-xa, giờ của sự thật đã điểm để chị đảo ngược tất cả: “Chúa chỉ cho tôi được nhìn thấy chân lý” ( C J 4.8.3 ). “Than ôi, tôi vẫn đứng nguyên tại chỗ như trước kia, không tiến lên được chút nào. Tuy nhiên, tự nhủ như vậy mà lòng tôi thì vẫn hòa dịu, không phiền muộn. Nhận thấy mình yếu đuối hèn mọn là điều êm ái biết bao !” ( C J 5.7.1 ).
Tê-rê-xa đã khám phá ra khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa trong con người Đức Giê-su Ki-tô, Người đến với chúng ta trong dáng vẻ yếu đuối, và như một kẻ hành khất chờ mong được chúng ta tin cậy. Chị biết đã đến lúc phải cậy trông một cách toàn diện. Không phải để làm đường gì tốt, mà là để chấp nhận mình bị vượt qua mãi mãi bởi tình yêu vô biên đang ở trước mặt chị.
Đối với chị cũng như đối với người trộm lành, đối với thánh Phê-rô, người phụ nữ Sa-ma-ri, cũng như đối với lớp người nghèo hèn và những kẻ tội lỗi, bước tiến vạn nan đã trở thành bước tiến dễ dàng ( le pas de l’impossible est possible ). Chính niềm tin đã kéo những cái tưởng là quá xa vời vào trong tầm tay của chúng ta. Thái độ chấp nhận đau khổ mà lòng không chua xót, chấp nhận bị đè bẹp bởi mệt mỏi, bất tài, bất lực, và có lẽ bởi tội lỗi nữa, thái độ ấy là con đường dẫn đến tinh thần khó nghèo được Thiên Chúa ban cho mọi sự.
Trong một lúc Tê-rê-xa đã phá vỡ khá nhiều uy hiếp từ bao thế kỷ đã bóp nghẹt Ki-tô giáo trên đường phát triển, chúng từng đè nặng trên chúng ta từ thời Giáo Hội nguyên thủy. Nhiều thế hệ đã ngộ nhận rằng: hễ là tín đồ Đức Ki-tô thì bắt buộc phải oai hùng, phải thiện hảo, phải luyện cho mình lòng sắt đá giống bậc thần linh, noi gương trường phái khắc kỷ Hy-Lạp hay Rô-ma... phải thiện hảo mới đến gần được Thiên Chúa. Mẫu người đó tất nhiên là cao quý, nhưng không đúng với tôn chỉ Tin Mừng.
Tê-rê-xa lớn tiếng cải chính ngộ nhận đó. Con đường nhỏ hẹp của Thánh Nữ mở ra, đón mời tất cả mọi người, từ người khao khát hy vọng cho đến kẻ tuyệt vọng. Thử thách của số mệnh có thể trở nên con đường băng qua đêm dài đen tối tiến ra ánh sáng, con đường của niềm tin, con đường tìm thấy Thiên Chúa.
Những đặc ân xưa kia xem như dành riêng cho tầng lớp được ưu đãi, cho những nhà thần bí được người đời trọng vọng – nay chị Tê-rê-xa cho chúng ta thấy những diễm phúc đó được Thiên Chúa đề nghị ban phát cho khắp cả mọi người. Chính thế, lo âu, sợ hãi, cám dỗ, mệt mỏi của anh chị em, tất cả gánh nặng đó có thể trở nên con đường của Thiên Chúa.
Ở đây, Tê-rê-xa gặp những kẻ nghèo khó nhất, tay trắng nhất, sa đọa nhất trong chúng ta, những kẻ đã mất hết điểm tựa. Đồng thời chị cũng gặp những người làm cách mạng lớn nhất, những kẻ nổi loạn lớn nhất, những người chỉ muốn trông cậy vào sức mạnh riêng họ mà thôi.
Nietzsche nghĩ rằng, đối với “con người nổi loạn”, Thiên Chúa đã chết, cho nên hết chẳng còn ai để đối thoại, hết còn phải sợ hãi. Bây giờ con người làm chủ mình, không bị một hạn chế nào. Cũng như những người làm cách mạng, Tê-rê-xa linh cảm rất rõ: quả thật, trong chúng ta có một tiềm năng bùng nổ, một tiềm năng vô tận.
Nhưng tới đây, con đường Thánh Nữ rẽ qua một ngã khác. Đối với Tê-rê-xa, cơ may, cơ may duy nhất của chúng ta, chung quy là do sự điên khùng của Thiên Chúa: Người là tình yêu, Người đã và đang yêu thương chúng ta, Người điên khùng đến nỗi hạ mình ngửa tay xin chúng ta hãy tin tưởng Người.
“Hỡi những kẻ đau khổ, tội lỗi, tất cả hãy đến cùng Ta để tìm thấy sức mạnh và an bình” – nhưng với điều kiện là không được đi tìm ở nơi khác nào đó một sức mạnh khác. Chừng nào chúng ta chấp nhận, chừng nào chúng ta yêu thương, chừng nào chúng ta cống hiến chính sự bất lực yếu đuối của chúng ta, lấy đó đích thật là dấu hiệu dứt khoát cho biết chúng ta đã tìm thấy sức mạnh vô biên mà những kẻ nổi loạn hằng mơ ước mà không được.
“NHỮNG VÌ SAO BAN NGÀY”
Suy niệm về khía cạnh nói trên của thông điệp từ chị Tê-rê-xa, bao giờ tôi cũng liên tưởng đến một truyền thuyết tuyệt tác của người Nga mang tên “Những vì sao ban ngày”. Tôi thấy trong đó như thể mô tả đời sống Thánh Nữ và đồng thời cả đời sống chúng ta nữa. Truyện kể rằng:
“Bầu trời lấy nào cũng có những vì sao, nhưng không phải bao giờ cũng có thể nhìn thấy, vì lẽ ban ngày thì ánh sáng mặt trời sẽ che khuất tất cả. Những vì sao ban ngày luôn đẹp hơn các vì sao ban đêm. Người ta chỉ nhìn thấy những vì sao ban ngày trong những giếng sâu yên tĩnh. Từ trên nền trời cao vút, mắt nhìn không thấu, những vì sao ấy chỉ phản chiếu xuống mặt nước đen tối tại những nơi sâu thẳm như thế dưới lòng mặt đất.
Đứng bên bờ giếng nhìn xuống đáy, người ta không thể nhìn thấy các vì sao nếu như nước giếng không đen nghịt, và nếu như mặt nước giếng dưới ấy không phẳng lặng, hoặc nếu giếng không đủ độ sâu cần thiết. Vì vậy, muốn ngắm nhìn được các vì sao ban ngày, có lẽ không nên từ trên miệng giếng ngó xuống, nhưng phải từ... đáy giếng cạn mà ngước nhìn lên bầu trời...”
Anh chị em đã hiểu ý nghĩa dụ ngôn nói trên. Có những ngày tâm hồn chúng ta đau khổ như thể bị giải phẩu cắt xẻ, có những lúc đời sống chúng ta như chìm trong tối tăm mịt mù.
Giữa cái cõi nhân sinh này, nơi chúng ta đang ở đây, tâm hồn và cuộc đời là những cái giếng sâu thẳm phản ảnh được một ngôi sao ban ngày đẹp nhất, rực rỡ nhất, đó chính là Niềm Hy Vọng. Ngôi sao ấy, mắt thường không thể thấy được, dường như nó không tồn tại, thế nhưng chúng ta lại có thể nhìn thấy Niềm Hy Vọng vào những lấy cuộc đời chìm sâu nhất trong những khốn cùng và khổ cực.
Bởi thế, cũng như chị Tê-rê-xa, chúng ta ở giữa nhân loại để cùng với nhân loại chia sẻ đau khổ và hy vọng. Thật vậy, hy vọng chiếu sáng trong vực sâu thăm thẳm của thất bại, khắc khoải lo sợ và khốn khổ tột cùng. Hy vọng được thanh luyện và ngời sáng của Thánh Nữ phải chăng chính là hình ảnh Thiên Chúa quan phòng ban cho người Ki-tô hữu ngày nay ?
Quả thật, Tê-rê-xa là đấng thánh của thế kỷ 21. Giống như Tê-rê-xa đã làm, Giáo Hội cũng đã nhập cuộc – một cách tập thể cho cộng đồng Dân Chúa và một cách riêng rẽ cho từng giáo hữu – để đương đầu với những thử thách, những vấn nạn, trong cảnh sương mù giăng kín, tối tăm dầy đặc, thứ tối tăm vừa đau khổ lại vừa kỳ diệu. Phải chăng với chúng ta, đã tới khoảnh khắc phải tin cậy, đã tới giờ của sự thật ?
Thánh Nữ nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Sự điên khùng của tôi chính là hy vọng” ( Ms B 5 vo ). Người thời nay mong đợi chúng ta, những tín đồ của Đức Ki-tô, có được sự điên khùng ấy. Như vậy, dù là người tin hay người không tin, chúng ta và anh em đồng loại đều có thể tìm lại được ngôi sao ban ngày đẹp nhất, ngôi sao Hy Vọng.
TRONG CẢNH VÔ VỌNG, VẪN CÓ ƠN CHÚA
Chúng ta thử liều đem trực giác của Thánh Nữ Tê-rê-xa thành Lisieux, một trực giác đúng với tinh thần của Tin Mừng – thu gọn vào một công thức nêu rõ tính hợp thời của trực giác đó đối với một nền văn minh đang trên đường đi tìm cho nó ý nghĩa và hy vọng.
Tê-rê-xa đã đạt tới đỉnh cao là lòng tri ân cảm tạ Thiên Chúa vì chị đã bị rơi vào cảnh vô vọng.
Vào tới đường vòng thứ ba của hy vọng là những kẻ biết mình được thương yêu chính vì chẳng còn gì hết, chẳng còn đến một chút hy vọng để bám víu.
Tới lấy mãn cuộc, Tê-rê-xa biết rõ không thể nương tựa vào bản thân mình. Thánh Nữ đã mất hết, mất cả hy vọng, cho nên chị đã tin cậy được vào lượng từ bi đón nhận của Thiên Chúa. Dấu hiệu sau cùng về niềm cậy trông của Tê-rê-xa là đến lúc đó thì chị đã cảm tạ Thiên Chúa vì được hoàn toàn tay trắng, sự trơ trọi yếu đuối này phá tung những cánh cửa của tuyệt vọng.
Trực giác bền bỉ của Thánh Nữ là như vậy. Đây chính là kinh Magnificat. Là hiến chương của đời sống được ban bố trong Tân Ước. Tê-rê-xa đã tìm thấy cánh cửa hẹp của Tin Mừng, vượt qua thì không khó nhưng lại chẳng dễ gì mà chấp nhận.
Ba tháng trước ngày qua đời, Tê-rê-xa đã dẫn chiếu Sách Ông Gióp để nói lên điều ấy: “Dù cho Thiên Chúa giết tôi, tôi vẫn nhất mực cậy trông nơi Người.” Lời này vốn đã làm tôi say mê từ thuở thơ ấu. Nhưng tôi chần chừ mãi mới đạt tới được trình độ buông xuôi phó thác như thế. Bây giờ thì tôi đã đạt được. Thiên Chúa đã nắm lấy tôi, đặt tôi vào chỗ đó.” ( Nhật ký ngày 7. 7.1897 )
Những ai cho rằng Thánh Nữ Tê-rê-xa thành Lisieux mảnh dẻ yếu đuối như thế làm sao đủ cương nghị, những ai cười mỉm khi nghe nói về tấm gương phi thường của chị thì xin đừng ngộ nhận. Thông điệp của chị mở ra cho thấy những vực thẳm sâu hút. Thông điệp có vẻ “dễ thương”, thế mà lại dẫn tới cao độ cảm tạ Thiên Chúa vì ở trong tư thế vô vọng. Thông điệp khiến người ta, một ngày nào đó, thú thật rằng “tất cả là hồng ân”.
Đúng thế, tôi khẳng định – và giữ vững lập trường đối với bất cứ ai phản đối quan điểm sau đây – rằng: Kẻ vô vọng, kẻ mất hết lý do hy vọng, mất hết lẽ sống, cho nên đành buông mình rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng, nếu kẻ ấy không từ chối ơn cứu chuộc thì y sẽ được Thiên Chúa nắm lấy, giữ chắc và chiếm hữu lấy y.
Tôi khẳng định như vậy bằng cách mời những người đã đi đến cùng, đã vào được trong vòng thứ ba của hy vọng, tôi xin mời họ phát biểu vì tôi không tìm được cách nào hay hơn thế nữa. Khi đề nghị với chúng ta con đường nhỏ của mình, chị Tê-rê-xa đã vượt quá xa điều chúng ta tưởng là giới hạn cuối cùng của Tin Mừng, của hy vọng. Chúng ta tưởng đã bàn kỹ khi thừa nhận rằng, vì Thiên Chúa thương yêu, chúng ta có thể xem những thử thách như những dịp thanh luyện.
Chị Tê-rê-xa đã đạt tới độ cao hơn, chị hiểu và sống theo lối dứt khoát lật ngược hướng tiến do Ki-tô giáo chủ trương. Dấu hiệu cụ thể và rõ ràng cho chúng ta biết chúng ta đã đổi điểm tựa chính là lúc chúng ta cảm thấy sung sướng được dâng hiến sự bất lực của mình.
Chúng ta gặp ở đây sự kết hợp chặt chẽ niềm trông cậy, lời nguyện cầu, sự khôn ngoan và sự hạ mình của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Người biểu hiện nơi lượng từ bi và tình yêu tương giao Người đã muốn thiết lập giữa Người và chúng ta.
Tuy nhiên điều sau đây vượt quá sức chúng ta. Chúng ta linh cảm một điều rất khó chịu là phải mong đợi người khác cho chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta có.
Tới đây, chị Tê-rê-xa đề nghị con đường của chị, có thể nói là con đường của kẻ trộm lành, vì là con đường của tự do, của hy vọng, xuyên qua sự yếu đuối, bất lực và cả tội lỗi nữa. Cái khó là ở chỗ con người vừa tội lỗi, vừa dễ bảo, lại vừa ngây thơ nữa chứ ! Tê-rê-xa hiểu rằng: cái cực độ khổ sở của kẻ tội lỗi và cái cực độ bất lực của trẻ thơ, chung quy chỉ là một.
Nếu chúng ta giống như con trẻ, chúng ta có thể chấp nhận bị vượt qua vì chúng ta luôn luôn chỉ có sự bất lực để cống hiến. Trông cậy và mong đợi đã thật sự là thành quả đẹp nhất của tình yêu. Chúng ta không thể dâng lên Thiên Chúa điều gì quý hơn là hư vô và hy vọng của chúng ta, bởi vì hy vọng bao gồm cả hư vô. Chỉ người nào yêu thì mới tin vào quy luật gia tăng gấp bội của tình yêu, mới tin được rằng tình yêu là bất tận, “tình yêu mong đợi mọi sự”. Cốt yếu là “đã cho” và điều ấy sẽ mãi mãi tồn tại.
Tặng phẩm quý nhất là niềm hy vọng. Thế mà Đức Ki-tô đã ban cho chúng ta tặng phẩm vô giá là niềm hy vọng tuyệt đỉnh, một niềm hy vọng bất chấp những hoàn cảnh tuyệt vọng: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa bỏ con ?”
Rút cục, đối với tất cả chúng ta và lớp người hèn mọn, bất tài bất lực, suốt đời chẳng được giao phó một sứ vụ nào đặc biệt, chị Tê-rê-xa cho thấy rằng: cao vọng yêu thương và sự chắc tâm sẽ thực hiện được cao vọng đó mà lớp người yếu kém nói trên tưởng đâu như chẳng thể nào với tới, thật ra đã được trao tặng một cách ưu đãi cho họ. Nhờ vậy, tức khắc chúng ta hiểu rằng trong đạo chúng ta không có giá trị nào lớn hơn con đường của tình yêu.
“Càng thấy mình yếu đuối, không dám có chút ước vọng nào, tự nhận mình không có nhân đức gì, thì lại càng được dễ dàng tác động bởi Tình Yêu nóng cháy và có khả năng làm cho mình được biến hoá.” ( L T 197 ).
Đúng vậy, chỉ những kẻ nghèo khó mới vào được Nước Trời !
PHẦN III
“SỰ ĐIÊN KHÙNG CỦA TÔI CHÍNH LÀ HY VỌNG”
Thánh Nữ Tê-rê-xa thành Lisieux có thể giúp chúng ta vượt qua giai đoạn cuối cùng, giai đoạn này không dành cho những kẻ mạnh mà chỉ dành cho những kẻ yếu đuối nhất.
Xét cho cùng, bí nhiệm hy vọng không phải là bí nhiệm của sức mạnh, nhưng chỉ là bí nhiệm của bất lực. Tất nhiên, đó là chiến thắng, không phải là thứ chiến thắng trần thế, đây là một chiến thắng vô hình, được ẩn giấu đối với chính kẻ chiến thắng, một chiến thắng mang tất cả dáng vẻ, tất cả đắng cay chua xót của một chiến bại, sống trong chiến thắng đó mà như sống trong thảm kịch bại trận.
Hy vọng không phải là bí nhiệm của sự oanh liệt hiển hách mà chỉ là bí nhiệm của niềm tin và tình yêu.
Trông cậy không có nghĩa là đau khổ một cách dũng cảm, cũng không phải chỉ là đau khổ đơn thuần, nhưng chỉ là khiếp sợ đau khổ, thế thôi. Trông cậy không phải là biểu dương nhân đức, nhưng chỉ là nhìn thấy tất cả nhân đức của mình nó rút lui, bỏ chạy tán loạn – và chỉ vì yêu thương mà chấp nhận như thế thôi. Không cần có nghị lực mới chấp nhận rằng mình yếu đuối, mà phải có lòng thương yêu, không phải cứ mím chặt môi mới làm được điều đó, vì nếu đã mím chặt môi thì tức là đã có sức mạnh rồi còn gì ! Mà chừng nào còn mạnh theo kiểu đó thì vẫn chưa thể hiểu nổi thế nào là trông cậy !
Trên đường Thương Khó, Đức Ki-tô đã không mím chặt môi lại, Người đã không cố dũng cảm vì biết sẽ không dũng cảm được. Đơn giản, Người chỉ nói: “Lạy Cha, nguyện xin ý Cha thể hiện, xin đừng theo ý con”. Thái độ ấy thuộc về một trật tự khác, thế giới của tình yêu. Tình yêu này không có trên thế gian, mà phải được Thiên Chúa thổi vào tâm hồn chúng ta. Thiên Chúa phải ngự đến trong chúng ta để chính Người yêu thương.
Chừng nào tới biên giới của Đất Hứa, chừng nào phải thực hiện cuộc vượt qua về với Thiên Chúa, chừng nào phát hiện được thực chất trần trụi của thân phận của loài thọ tạo tội lỗi, chừng nào thấu hiểu rằng hạnh phúc thật của Thiên Chúa phá vỡ những giới hạn tâm hồn chúng ta, mở toang tầm mức nghèo nàn của chúng ta trong cách thụ hưởng và quan niệm về hạnh phúc, về thiên đàng – lấy đó chúng ta sẽ làm thế nào để không lùi bước, để không từ khước ?
Vì vậy, chỉ còn cách bám giữ lấy tinh thần đơn sơ ngay thẳng. Chúng ta có thể chểnh mảng không quân tâm đến con đường hồn nhiên trong sáng của những ngày thơ ấu. Dễ lắm, chỉ cần dừng lại ở những dáng vẻ và những biến đổi nhất thời về bản chất, ở tác phong các trường đạo, ở các tập truyện tranh minh họa tôn giáo, không cần đi sâu hơn vào vấn đề.
Xin chớ quên rằng Thiên Chúa nhập thể, nghĩa là Người hạ mình xuống ngang tầm nhân loại, để nếu cần, chịu khép mình vào khuôn khổ chậm chạp yếu hèn của loài người, cốt sao, về mặt chủ yếu, về mặt cần thiết duy nhất, loài người hiểu biết và thương yêu.
Bản chất con đường thơ ấu là dễ bảo một cách khiêm hạ, và tin cậy vào Thần Linh Thiên Chúa. Chỉ Thiên Chúa mới làm cho chúng ta hiểu được ngọn lửa thiêu đốt mà Người muốn nhóm lên trong tâm hồn chúng ta, đó chính là lượng từ bi nhân ái của Người giống như tình mẫu tử, là sự bình an vượt cao trên mọi tình cảm, là đức nhân hậu của Người mãnh liệt và sâu sắc vượt thoát khỏi tất cả các thứ bạo lực, không phải vì nó quá mãnh liệt mà chỉ vì bản chất nhân hậu của nó mà thôi.
Chỉ có Thiên Chúa mới chiếm hữu được chúng ta nếu chúng ta tỏ ra có đủ tính đơn sơ bé mọn. Người chiếm hữu chúng ta do những cái mong manh dễ vỡ nhất, yếu đuối hoang mang nhất trong chúng ta, do chính nhu cầu của chúng ta là phải dựa vào một người biết hết, hiểu hết, tha thứ hết, hàn gắn mọi đổ vỡ, – một người lợi dụng đến cả mối lo sợ của chúng ta để dạy cho chúng ta biết cách chạy đến nương bóng Tình Yêu.
Bởi vì, bất chấp mọi sự, vượt lên trên tất cả, vượt quá cả Thập Giá, tình yêu vẫn là tình yêu, hạnh phúc vẫn là hạnh phúc, Thiên Chúa vãn mãi mãi là Cha nhân lành, đáng sợ đối với kẻ quyền thế, nhưng lại nhân ái vô cùng đối với những kẻ hèn mọn khiêm nhường, với những kẻ nào hy vọng đến tận cùng tin tưởng và không nương dựa vào chính bản thân họ.
Sau Thánh Phan-xi-cô thành Assisi, sau các thánh từ Đức Ki-tô trở đi đã mặc khải cho chúng ta ít nhiều về các Mối Phúc Thật, Thánh Nữ Tê-rê-xa thành Lisieux trong sự chờ đợi bất tận một mặt trời không bao giờ mọc lên nữa, đã định nghĩa về “niềm vui trọn vẹn”.
Giữa cơn khủng hoảng chỉ có thể thoát khỏi bằng cái chết, Thánh Nữ viết những dòng sau đây:
“Nhưng thật ra, trong tâm hồn tôi có tình yêu tinh tuyền hay không ? Những ước nguyện vô biên của tôi phải chăng là một giấc mơ, một sự điên khùng ? A, nếu vậy, lạy Chúa Giê-su, xin soi sáng con. Nếu những ước nguyện của con là dại dột, táo bạo, xin Chúa làm cho chúng biến đi, vì đối với con, chúng là khổ hình cùng cực nhất. Xin Chúa cho con biết bí nhiệm này là gì...
Thôi, tôi cũng chẳng buồn phiền làm chi ! Không có gì làm tôi phải khiếp sợ. Và nếu những đám mây đen kéo đến che kín Mặt Trời Tình Yêu, tôi biết rõ, đàng sau những đám mây đó, Mặt Trời của tôi vẫn chiếu sáng, ánh sáng không thể bị che khuất giây phút nào.
Đôi khi đúng là lòng tôi đã nổi cơn giông bão, không tin rằng còn có gì khác ngoài những đám mây đang che phủ Mặt Trời. Lấy đó, tôi vui sướng trọn vẹn. Hạnh phúc thay, vì dù sao cũng được ở đây mà chăm chú theo dõi ánh sáng vô hình đang lẩn tránh Đức Tin của tôi.” ( Ms B 4 vo / 5 ro )