CẬY TRÔNG BẤT CHẤP TUYỆT VỌNG

PHẦN II
ÂM THẦM LẶNG LẼ

Như vậy, chúng ta phải đối phó với câu hỏi ghê gớm này: Vòng thứ ba của hy vọng có thật sự tồn tại không ? Vòng trong cùng này có chối bỏ những phẫn nộ phản kháng hay không ? Phải chăng Thiên Chúa đã có một dung nhan mới ? Nếu vậy phải diễn tả cách nào đây ?

Không thể tuyên bố ồn ào, không thể khoa trương khí thế, cũng không thể xử dụng thứ ngôn ngữ hiền lành. Hoặc tránh né, hoặc đương đầu với vấn đề. Mà đương đầu thế nào bây giờ ?

Rất đúng là trong giai đoạn này người ta phải thầm khiếp sợ mà thú nhận rằng chỉ có một số rất ít người, một số sót nhỏ nhoi có được Đức Cậy kiên cường mới có thể và mới có quyền trả lời. Ở đây, người ta phải lặng thinh nhường lời cho những kẻ đã vào tới đường vòng trong cùng của hy vọng, phải nhường lời cho những ai đã từng băng qua lò lửa. Chỉ những kẻ ấy mới thật sự có quyền phát biểu.

Số ít người ấy quả là có thật ! Chúng ta có thể nghe thấy họ lên tiếng.

Những ai đối diện với Bụi Gai rực cháy được nói đến trong Cựu Ước, những ai đã vượt sông Gioóc-đan, những ai đã vào tới tâm điểm chí thánh của Đức Cậy để bắt gặp đêm tối mịt mù mà đồng thời cũng là ánh sáng rực rỡ của chính ngọ - phải, những kẻ được khai tâm nhận lấy bí quyết để leo tới đỉnh cao nhất của hy vọng, những người ấy quả là có thật.

Tất cả những ai đã đơn sơ hóa tâm hồn, trở lại như con trẻ để xứng đáng với Nước Trời, những kẻ ấy đã trả giá bằng một sự thoát xác, họ thật sự như thể chết đi ngay từ bây giờ để hưởng một sự phục sinh không thể ngờ được. Một sự hóa thân biến thể phi thường được đề nghị với một lớp người đông đảo hơn những ai có thể trả lời được minh bạch. Chúng ta có thể nêu danh tánh lớp người ưu việt đó.

Tới chặng cuối cùng, làm sao con người còn có thể tuyên bố nhân danh mình, hoặc chỉ tuyên bố nhân danh Thiên Chúa ? Nếu lấy danh nghĩa Thiên Chúa mà nói thì phải nhắc lại những lập luận của chúng ta.

Tuy nhiên, trong ngôi thánh đường Notre Dame de Paris này, tôi lên tiếng nhân danh Thiên Chúa và nhân danh đám đông những người này bởi họ đã làm chứng cho một niềm hy vọng đã từng chịu thử lửa. Chúng ta phải nhường lời cho họ.

LINH MỤC MAXIMILIEN KOLBE

Mỗi người trong chúng ta đều có thể dẫn ra những gương mẫu đạo hạnh. Một ngày nào đó, từ đáy sâu của thứ tuyệt vọng đáng lẽ phải là tuyệt vọng tuyệt đối, một người đã đơn giản xua đuổi không để cho tuyệt vọng xâm chiếm tâm hồn lúc lâm chung. “Nhờ tin và yêu”, theo lời thánh nữ Tê-rê-xa thành Lisieux lúc hấp hối, người ấy đã đẩy lui nỗi tuyệt vọng cực độ.

Tôi chỉ xin đơn cử gương sáng của hai nhân chứng trong một thảm cảnh rất đáng được mang tên là “Nỗi oan khiên của kẻ vô tội” [1]. Xin nói rõ thêm, sau đây là gương mẫu cao đẹp của một người vô tội bị tử hình và của một em nhỏ bất túc gặp tai nạn khủng khiếp.

“Ngày 30.7.1941, trong trại giam Auschwitz, miền nam Ba-lan, tại khối 14, nơi đây mấy tháng về trước, Linh Mục Maximilien Kolbe, dòng Phan-xi-cô, người Ba-lan, bị áp giải đến cùng với một số tù nhân khác. Hôm ấy, điểm danh thấy thiếu mất một trại viên. Ai nấy đều biết, hễ có một kẻ vượt trốn thì hai mươi người cùng khối sẽ bị phạt trọng cấm, bỏ cho chết đói.

Đêm đó, trong dẫy nhà khối 14, không ai chợp mắt được. Lo sợ xâm chiếm mọi người, mặc dù họ là những kẻ đã từng nhiều phen ao ước được chết, coi cái chết như một giải thoát. Chết dưới làn đạn súng trường cũng được, nhưng họ không hề muốn phải chết thảm trong hầm gian đói, bởi đó là cái chết tàn khốc nhất. Toàn trại vang lên những tiếng gào thét phát ra từ căn hầm tra tấn. Đêm hôm ấy, cha Kolbe an ủi và giải tội cho những bạn cùng trại.

Sáng hôm sau, lúc điểm danh, viên chỉ huy trại giam Auschwitz loan tin không tìm thấy kẻ đã vượt ngục. Trại viên khối 14 đứng im phăng phắc, chờ tuyên phạt. Y dừng lại trước hàng ngũ tù nhân: “Mười người trong bọn các ngươi sẽ chết thay nó. Lần sau mà còn thế, sẽ tăng lên hai mươi người.”

 Y duyệt qua hàng đầu, có vẻ cân nhắc, rồi chỉ vào người này, người kia... đủ mười người. Vậy là mười người phải chết. Chợt, một tù nhân trong số mười tử tội bật kêu lớn: “Vợ tôi, các con tôi, trời ơi !” Còn những kẻ may mắn không bị chỉ định thì thở phào, hú vía !

Đột nhiên xảy ra một sự việc bất ngờ. Một người bước ra khỏi hàng ngũ. Người ấy dám liều, nhìn thẳng mặt viên chỉ huy đang hết sức bỡ ngỡ. Bất giác, y lui về phía sau, quát: “Đứng lại !” Cha Kolbe đang đứng ngay trước mặt y”.

Sau đây là một cuộc đối thoại chúng ta chưa từng thấy bao giờ, một cuộc đối thoại điên khùng, được những người sống sót sau này thuật lại rất chính xác: “Ông có cho tôi chết thay một tử tội không ?”

Viên chỉ huy nhìn vị Linh Mục, y choáng váng như không nghe thấy gì. Y hỏi:

- Anh là ai ?

- Một Linh Mục Công Giáo.

- Muốn chết thế cho ai ?

- Cho người này – cha Kolbe chỉ vào người tử tội vừa kêu lên thống thiết lúc nãy.

- Tại sao ?

- Vì đời tôi chẳng còn giúp ích được bao nhiêu. Còn anh này thì có vợ có con.

Viên chỉ huy suy nghĩ rồi vẫy tay ra hiệu chấp thuận. Cha Kolbe tiến tới nhập bọn với những người tử tội. Một giây phút im lặng. Không ai hiểu việc gì vừa diễn ra.

Trong cái khối trại giam tàn sát và hủy diệt Auschwitz được bảo tồn cho tới nay như một chứng tích về sự dã man tàn ác của con người, có một căn hầm giam tử tội. Từ lúc họ bị lột hết quần áo, tống vào đó, ban chỉ huy trại tuyệt đối không cho họ ăn, và khốn nạn hơn nữa, không cho cả nước uống. Thiết tưởng cũng nên nhắc qua rằng, khi quyết tâm tuyệt thực trong những vụ đình công nổi tiếng, ông Gandhi tuy ngừng ăn nhưng vẫn uống. Cực hình khát...

Trước đây, từ căn hầm giam từ tội bị bỏ cho chết đói, một địa ngục thu nhỏ, vẫn thường vang lên những tiếng kêu thét. Nhưng lần này, đã có một sự biến đổi. Bọn SS ngẩn ra, chúng không tài nào hiểu được: đám tử tù lại cầu nguyện và ca hát. Tuy đôi lúc vẫn còn nghe thấy những tiếng rên rỉ, nhưng tuyệt nhiên không còn những tiếng thét tuyệt vọng như mọi lần.

Và ngày 15.8.1941, hai tuần sau khi bị giam trong hầm hủy diệt, chỉ còn một mình cha Kolbe sống sót. Toán người vào thu dọn thấy ngài ngồi dướt đất, đầu dựa vách, thân thể sạch sẽ gọn gàng, vẻ mặt tươi sáng thanh thản. Bọn mật vụ đành phải kết liễu đời ngài bằng cách chích cho ngài một ống carbone. Cũng như biết bao tử tội, cũng như tất cả các tử tội, tử thi ngài được đưa vào lò hỏa thiêu, tàn tro đem tung vãi cho cuốn theo chiều gió.” [2]

Thưa anh chị em, một nhà thần học người Đức, trong số những nhà thần học trước tác nhiều nhất về chủ đề hy vọng, tuy nhiên lại chưa hề nhắc đến Linh Mục Kolbe, đã nói được rằng: “Nếu trước đây không xảy ra một hiện tượng thần học tại Auschwitz thì ngày nay không thể có được ngành thần học về Auschwitz”, ý ông muốn nói đến thần học về sự dữ và niềm hy vọng.

Đúng thế ! Và sự kiện nêu lên kế tiếp sau đây đã vượt lên trên mọi ngành thần học:

Một số người đã chỗi dậy, bất chấp mọi tuyệt vọng. Khối oan khiên đang đứng kia, dưới chân Thập Giá, làm chứng cho đám người thầm lặng đông không kể xiết, đó là những kẻ vô tội bị tai ương nghiền nát, chính họ mới có quyền lên tiếng ở đây !

OAN KHIÊN GIÁNG XUỐNG TRẺ THƠ

Anh chị em sẽ phản đối: “Trường hợp đặc biệt thì phản ứng cũng đặc biệt. Điều đó quá sức chúng tôi. Thân phận chúng tôi đâu có quá khốn khổ như họ. Chúng tôi đâu có được mời gọi tham dự một cuộc thử lửa như vậy !” Nếu thế, chẳng lẽ anh chị em cho rằng ngày nay hỏa ngục trần gian là quá đặc biệt ? rằng oan khiên giáng xuống đầu những kẻ vô tội là chuyện hiếm có sao ?

Chúng ta lắng nghe người làm chứng thứ nhì – một bé gái.

Vượt trội hơn bất cứ diễn từ nào, nhân chứng này dẫn dắt chúng ta vào sâu trong sự bí ẩn của Đức Cậy. Và tôi biết rõ, ở đây cũng thế, chứng liệu lên đến tột đỉnh, đạt hết mức giới hạn chịu đựng của con người. Thật vậy, ngay như việc chấp nhận chứng liệu cũng đã đòi hỏi phải có một phần nào đó sự điên khùng của niềm hy vọng mà chứng liệu chứng minh.

Cũng như trường hợp cha Kolbe, câu chuyện sau đây do những người làm chứng mắt thấy tai nghe thuật lại, loại nhân chứng không thể phi bác. Câu chuyện có lẽ giúp chúng ta thoáng nhìn thấy một chút ý nghĩa về cuộc đời những trẻ bất túc tật nguyền, theo mức độ nó cho phép chúng ta nhìn thấy trước số kiếp của mình, những sinh linh trước sau gì cũng phải trải qua một lần chết rồi sống lại. Đây là một bí ẩn không tài nào hiểu được bao lâu chúng ta chưa hiểu gì về sự chết và sự vinh hiển của Thiên Chúa, tôi xin nói thêm, về đường vòng thứ ba mà những em nhỏ bất hạnh đã vượt qua.

Trên một chuyến xe lửa hồi tháng bảy năm 1974, viên kiểm soát hỏa xa tại ga Montpellier cấp báo cho bà quản đốc Viện Nuôi Dưỡng Trẻ Em Bất Túc - một dạng tật nguyền cơ thể và thiểu năng về trí tuệ - rằng có một em thuộc trung tâm do bà điều hành vừa gặp tai nạn, em bị phỏng nặng toàn thân, yêu cầu bà phải đến ngay bệnh viện.

Hồi còn nhỏ, em này đã mắc phải căn bệnh viêm màng não nên trở thành bất túc đần dộn. Khi xảy ra tai nạn, em mới 12 tuổi. Em rất ngoan ngoãn dịu dàng, em được rước lễ lần đầu trước đây ít lâu. Tuy vậy, em quá dốt nát nên người ta để em ở chơi không, tới giờ học, em được vào lớp ngồi chung với những học sinh lớn nhất, đơn giản thế thôi.

Than ôi ! Tai nạn xảy ra chỉ vì em đã nhanh nhẩu muốn giúp đỡ người lớn, em đã mang một chai xăng đến gần bên một bếp lửa đang cháy. Em tuột tay đánh rơi chai xăng. Từ trong đám lửa phừng phừng, người ta vội kéo giật em ra, trông giống một khúc củi cháy gần thành than, tuy thế, em vẫn còn thoi thóp yếu ớt.

Đây là một chuyện thương tâm không thể tưởng tượng nổi của tuổi ngây thơ khờ dại, của sự khốn khổ tuyệt đối. Người ta không thể gây mê cho em. Đứa trẻ đần độn lên tiếng trả lời vị bác sĩ giải phẫu: “Bác ơi, Chúa chúng ta đã chịu đau đớn khổ cực hơn cháu rất nhiều.”

Không một lời than thân, không một tiếng thở dài, nhưng chỉ là lời nói trẻ thơ nên khiến cho mọi người phải sửng sốt. Những ai có mặt lúc đó, về sau đều thú thật: “Một truyền thuyết cao đẹp đã hình thành như thế đấy...” Họ đành phải đầu hàng trước sự thật !

Đôi mắt em bé gần như bị thiêu rụi, toàn thân em không còn ra hình dạng con người. Vậy mà em cố gắng khẩn khoản xin mọi người chung quanh đừng quá vất vả săn sóc em làm gì. Dẫu sao, em vẫn để cho người ta dấp nước lên đôi môi nứt nẻ của em: “Vâng, nếu bác sĩ cho phép như thế thì cháu xin cảm ơn rất nhiều.”

Em nói chuyện, em bông đùa, làm cho bầu khí bệnh viện trở nên dễ thở hơn, những người điều dưỡng do vậy cũng thấy bớt căng thẳng.

Bác sĩ hỏi bà quản đốc: “Em bé này là thế nào ? Người ta báo cho chúng tôi biết em bị bất túc cơ mà ? Tôi chưa hề thấy có một nghị lực mãnh liệt như thế này bao giờ !” Về sau, ông đã thú thật: “Tôi đã chạm tay vào mầu nhiệm của Chúa”.

Để cứu em, tất yếu phải giải phẫu, nhưng lại không thể chụp thuốc mê cho em, biết phải nói với em thế nào đây ? Các điều dưỡng viên còn đang băn khoăn thì như thể được linh cảm, em đã nói với họ rằng cứ yên tâm, em biết rõ thế nào em cũng phải chịu cắt xẻ.

Thế rồi, khi cuộc giải phẫu hoàn tất, chị nữ tu săn sóc em tin chắc em sẽ không qua khỏi, chị hỏi em: “Em thích gì hơn, thích được ở lại với các bà các chị hay là thích được về thiên đàng ?” Câu đáp đến ngay không một chút ngập ngừng: “Ở đây con có Chúa, về thiên đàng con cũng có Chúa, khác gì đâu ? Con chỉ thích sự gì Chúa muốn mà thôi.”

Tiếp đến là cơn hôn mê bất tỉnh hoàn toàn. Em bé bất hạnh cứ thế sống dai dẳng suốt một tháng mới lìa đời... Tới lúc chôn cất, giám đốc Viện Điều Dưỡng và các y sĩ giành lấy việc khiêng linh cữu, không muốn để cho người khác, bởi chính em đã nhắc họ nhớ lại, thế nào là niềm cậy trông,” [3]

Đúng thế, câu chuyện tuyệt đối có thật, nó đè bẹp, nó làm chúng ta bàng hoàng.

Tôi biết rõ điều đó. Nhưng tôi cũng biết rằng nhiều người trong anh chị em đang ngồi đây đã từng sống, đã từng thấy, từng đụng chạm với nhiều biến cố tương tự. Tôi biết rõ, tại những xứ bị chiến tranh dày xéo, từ Nigéria đến Việt-Nam, có biết bao kẻ nín lặng, biết bao thánh anh hài, biết bao người đã thụ đắc được bí quyết của niềm hy vọng.

Xin đừng có ai nói với tôi rằng: vòng thứ ba của hy vọng dù sao cũng chỉ có tính cá biệt, như thể nó chỉ thu nhận những cá nhân lẻ tẻ. Tôi sẽ trả lời: nghĩ như thế là lầm to ! Vòng trong cùng không hề cá biệt hơn hai vòng ngoài. Anh chị em không hiểu gì về niềm cậy trông đích thật. Nụ cười của một em nhỏ biết tẩy trừ tuyệt vọng, nó biểu lộ một mối tình liên kết chặt chẽ nhất trên cuộc đời này, nó cho người ta nhìn thấy được một tình cảm say mê tập thể sâu đậm nhất, thứ say mê phát sinh từ Đấng chịu đóng đinh trên Thập Giá, nó vứt trả một tiếng “không” quyết liệt cho tất cả những thế lực của sự phá hoại.

Đó là sự chấp nhận đứng chung một chiến tuyến, quyết không chịu ngã lòng, là niềm say mê phấn đấu đến cùng chống lại những lực lượng của chết chóc và ác độc.

Đúng thế, nụ cười của một trẻ thơ được kéo giật ra khỏi đám lửa thiêu; niềm cậy trông bất khuất của một người Do-thái; sự tận hiến mạng sống mình giống như tiến dâng bánh rượu trong Thánh Lễ của một Linh Mục Dòng Thánh Phan-xi-cô tự nguyện chết thay cho một kẻ không quen biết... đúng thế, lượng khoan thứ và lời nguyện cầu của Đức Giê-su Ki-tô khi thụ hình trên Thập Giá chính là những sức mạnh duy nhất lan tỏa nhanh hơn, mạnh hơn sự truyền nhiễm của sự độc dữ và bạo lực !

PHẦN III

TẤT CẢ CÓ ĐƯỢC MỜI GỌI HAY KHÔNG ?

Anh chị em sẽ phản đối, cho rằng đấy chỉ là những biệt lệ. Một số trong anh chị em có lẽ sẽ nói rõ hơn: Có thể họ là những người được ưu đãi, thế nhưng không phải bất cứ ai cũng được mời gọi tham dự vào giai đoạn cao độ nhất của hy vọng.

Tôi xin trả lời ngay: Có chứ ! Chung cục thì bất luận ai cũng được mời, nhưng thật ra lời mời sẽ được gửi đến từng người vào giờ phút và theo cách thế thích hợp cho mỗi người.

Đúng vậy, không phải bất cứ ai cũng được mời ngay tức khắc đâu. Nhưng cũng đúng là mọi người đều phải chuẩn bị sẵn sàng ra nghênh tiếp. Đấy là điều quan trọng mà Đức Ki-tô đã hết sức nhấn mạnh trong các dụ ngôn đầy rẫy trong các sách Tin Mừng: Phải cảnh giác, phải chú ý, phải kiên nhẫn, phải luôn ứng trực – vì chỉ có thường xuyên tỉnh thức mới không bỏ lỡ mất thời cơ đón nhận ơn cứu chuộc – và sau hết, phải tin tưởng.

Một ngày nào đó, lời mời sẽ được chuyển đến chúng ta, xuyên qua gian nan thử thách, qua bóng tối của lo âu, hoặc là mãi tới giây phút lâm chung chúng ta mới nhận được, hoặc là qua những đề nghị bất ngờ nhất của Thiên Chúa ( chúng ta sẽ bàn rõ hơn về điểm này sau ).

Thánh Augustinô suy gẫm rằng, dù là đang khi sa ngã, tất cả chúng ta sẽ nghe thấy Chúa hỏi: “Con có mong gì không ?” Thật vậy, đằng sau chước cám dỗ của hư vô và tuyệt vọng, anh chị em có mong được tin tưởng chăng ?

Tới đây chúng ta đã tới đường vòng cuối cùng của hy vọng. Phải, ở giai đoạn cuối trên lộ trình cậy trông Ki-tô giáo, một thử thách ghê gớm sẽ chờ đợi chúng ta, một câu hỏi lớn nhất mà cũng đơn giản nhất, ai cũng có thể nghe thấy, nó không chỉ chất vấn: “Bạn có mong chết không ?” nhưng nó lại đặt vấn đề rất sát: “Bạn có mong được hy vọng không ? có mong được tin tưởng vào sự hiện diện tối hậu đủ sức đẩy lui hỏa ngục, sự dữ, Sa-tan và tuyệt vọng không ?”

Lâm vào bước đường cùng, chúng ta chỉ còn một phương sách là cầu cứu Thiên Chúa, xin Người xét lại thái độ của Người.

Nhận xét rất đúng về giai đoạn hy vọng cuối cùng, khi nhắc đến tổ phụ Áp-ra-ham, một chứng nhân của niềm tin không gì có thể lay chuyển được, của niềm cậy trông đã lên tới tuyệt đỉnh, thánh Phao-lô đã định nghĩa bản chất chủ yếu của đường vòng thứ ba này bằng một công thức có tính quyết định: “Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông, ông đã tin bằng một Đức Tin sắt đá. Trước lời hứa của Thiên Chúa, ông không hề nao núng vì ông không hoài nghi. Và không chỉ vì ông mà thôi, mà vì chúng ta nữa.” ( Rm 4, 18 - 23 ).

Đó là tâm trạng của tổ phụ Áp-ra-ham trong lúc phấn đấu tuyệt vọng để cố gắng cứu vớt hai thành Sô-đô-ma và Gô-mô-ra. Và đây cũng chính là tâm trạng của ông Gióp và của người Do-thái Jossel Raschower ở Varsovie.

Lần nào cũng vậy, người ta tưởng rằng con người tốt hơn Thiên Chúa. Đó là kết luận của Albert Camus và của mọi người để rút cục, tự miễn cho mình khỏi phải trông cậy, khỏi phải cần đến Thiên Chúa, rồi đưa ra một kết luận phi lý. Phải, tại sao rút cục người ta tưởng rằng con người tốt hơn, yêu thương hơn Thiên Chúa ?

Lời đáp trả của những nhân chứng trong lò lửa đơn giản đến mức làm chúng ta xúc động mủi lòng. Sở dĩ con người giữ vững được tới lúc đó là bởi họ nhận được một sự hậu thuẫn kín đáo, một sức mạnh do Thiên Chúa ban cho để tiếp tục phấn đấu, để ngay trong thế tuyệt vọng mà vẫn cứ giữ được hy vọng, để băng qua lò lửa - và ở khoảnh khắc nguy kịch này, chỉ Thiên Chúa mới có thể nâng đỡ chúng ta.

Vì tới lúc đó thật sự là hết, con người có cố gắng tới đâu cũng vô ích thôi ! Chỉ có Thiên Chúa hậu thuẫn cho ông Áp-ra-ham khi ông điều đình với Người, tìm mọi cớ để giải cứu những kẻ ông đem lòng thương xót: “Lạy Chúa, thế nào con cũng tìm được ít nhất 40 kẻ công chính, 30 kẻ công chính, 10 kẻ công chính...”

Đứng trước thành Sô-đô-ma, ông Áp-ra-ham có vẻ từ bi hơn cả Chúa của ông ! Còn ông Mô-sê thì dường như nhân hậu hơn cả Chúa, và người Do-thái ở Varsovie cũng dường như có được tấm lòng yêu thương hơn Chúa xa !

Và tới lúc bĩ cực không lối thoát, các thánh đã tiết lộ cho chúng ta điều bí ẩn duy nhất làm chúng ta sửng sốt bàng hoàng. Trước niềm cậy trông phi phàm của các vị, thật sự người ta chỉ biết nhận định: Quả là một phép lạ thần kỳ, chỉ Thiên Chúa mới có thể giữ cho ngọn lửa hy vọng luôn ngời sáng ngay giữa vực sâu tuyệt vọng, chỉ có Người mới ban cho chúng ta cái diễm phúc cậy trông một cách siêu đẳng như thế. Vì nếu cứ xét bề ngoài thì dường như Thiên Chúa ngoảnh mặt đi, nên con người mới ngộ nhận tưởng rằng mình nhân từ quảng đại hơn cả Thiên Chúa.

Từ ngoài nhìn vào các biến cố khốc liệt, người ta dễ ngộ nhận như vậy. Và cũng chỉ có kẻ nào trông cậy mới biết rằng lầm tưởng như thế là đã đứng mấp mé ở bờ vực của lộng ngôn, phản nghịch gớm ghiếc !

ĐẶC ÂN CỦA NHỮNG KẺ BỊ NHỤC MẠ

Những nhân chứng chúng ta viện dẫn trên đây nhắc chúng ta nhớ: dám tuyên bố rằng người ta có thể cậy trông trong hoàn cảnh tuyệt vọng, thật chẳng kém gì lời phán dạy của Đức Ki-tô: “Nếu các ngươi không hoán cải tâm hồn, không trở lại như con trẻ, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời.”

Tôi biết, thật ra điều khẳng định thứ nhì “trở lại như con trẻ” dường như kém phần gay go hơn, có vẻ như dễ hơn điều thứ nhất là “hoán cải tâm hồn”. Đối với chúng ta, nó kém gắt gao hơn, nó không đáng sợ mấy so với niềm cậy trông chúng ta đã phân tích ở trên.

Đòi hỏi này được diễn tả bằng những lời phán dạy khác của Đức Ki-tô, Người mời gọi chúng ta “hãy vác thập giá mình” “hãy cố giữ vững”.

Hai việc: trở nên như con trẻ, và bước vào vòng thứ ba của hy vọng – thật sự chỉ là một. Đúng thế, vì chính tấm lòng ngay thẳng trong sáng là điều Thiên Chúa chờ mong nơi chúng ta, nó là sự tin tưởng hồn nhiên rằng bất luận việc gì xảy đến, Thiên Chúa vẫn không bỏ mặc chúng ta đâu.

“Tôi không thể nào nghĩ rằng Thiên Chúa lại bỏ mặc chúng ta như thế này”, đó chính là niềm tin tưởng đơn sơ nhất. Chung quy Thiên Chúa chỉ chờ mong chúng ta đừng quan tâm đến dáng vẻ bề ngoài của mọi tình huống, mong đợi chúng ta dâng lên Người lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, một lòng tin tưởng cậy trông giống mà chỉ có trẻ thơ mới biết dâng hiến. Cho dù có gặp biến cố nào đi nữa thì một em nhỏ không bao giờ chấp nhận rằng em đã bị mẹ em bỏ mặc buông rơi.

Thái độ không thể nào mất tin cậy vào người khác vì mình quá bé mọn yếu đuối đích thật là đỉnh cao nhất của hy vọng. Thật ra, một em nhỏ dù có muốn không tin cậy cũng không được, tuyệt đối không thể được.

Người ta thường trình bày về những nhà thần bí như thể họ bị chi phối bởi những những hiện tượng phi thường, thứ hiện tượng dành riêng cho một số người, cho một tầng lớp ưu việt. Y như thể đây là một sự mạo hiểm chỉ những “lực sĩ” trong đời sống thiêng liêng mới đủ sức tham dự.

Trong thực tế, đây chẳng qua chỉ là hiện tượng hóa thân có thể gặp được trong tiến trình hy vọng, – là sự đảo ngược nếp suy tư mà mỗi người chúng ta được mời gọi hãy thực hiện, – là sự thần luyện bằng cách chết đi và sống lại mà Đức Cậy là bí quyết, – là môi trường và cũng là đích đến trên lộ trình cậy trông thật sự.

Đó là hiện tượng cần thiết cho những ai muốn khôi phục lại một tâm hồn thơ ấu. Hoàn toàn đây không phải là giao ước dành riêng cho một số người, tuy rằng sự chuyển hướng quay về với Thiên Chúa được thật sự trao tặng riêng cho một thiểu số, và không phải bất cứ ai cũng được nghe thấy lời hứa.

Nếu nghĩ rằng thiểu số nói trên là một tầng lớp cao quý thì cùng với Tin Mừng, tôi xin tuyên bố: Anh chị em nghĩ thế là đúng ! Tầng lớp đó chính là giới thượng lưu gồm tất cả những kẻ nghèo hèn, những kẻ bị lăng nhục, những kẻ tật nguyện bất túc và tất cả trẻ thơ trên trái đất này !

Chúng ta hãy nhận xét thêm.

Tất nhiên, giữa chúng ta là những người trưởng thành, hay lầm tưởng mình đã trưởng thành, vốn dĩ là những người mà cuộc đời đã ít nhiều ổn định, thật khó mà tìm được những người “có tai để nghe thấu”. Nhưng nếu tìm kiếm giữa những người nghèo thì chúng ta sẽ gặp được cả một đám đông những kẻ đã vượt được vào vòng thứ ba của hy vọng.

Lớp người đông đảo nói trên, ngay từ lúc bước vào cuộc đời đã bị xỉ vả hà hiếp nên họ không có được cả cái quyền lựa chọn. Thật ra, họ được yêu cầu đừng có nổi loạn trong một phạm vi nào đó mà dù sao Thiên Chúa cũng đã cho họ được quyền lựa chọn.

Giả sử anh chị em không được đặc ân thuộc vào tầng lớp ấy thì anh chị em phải hiểu rằng mình có bổn phận trở nên như con trẻ theo huấn dụ của Tin Mừng: “Nếu các ngươi không hoán cải, không trở lại như con trẻ, nếu các ngươi không vượt qua cửa hẹp...”

Phải, với tất cả chúng ta, Đức Ki-tô đã không nói sai. Anh chị em và tôi, chúng ta có thừa thãi kiến thức, quyền bính, văn hóa, thần học, đặc ân, tất cả chúng ta được mời gọi tham dự một cuộc khai tâm nhập môn, một cuộc đổi hướng, một cuộc biến hóa tâm hồn qua một cơn hấp hối thật sự hoặc qua một cơn khủng hoảng ngã lòng nào đó - ngã lòng vì thấy mình mất hết những bảo đảm tiếp thu được trong hai vòng ngoài của hy vọng, chúng đã đem đến cho chúng ta sự chắc tâm vững dạ.

Thế nhưng, chúng ta cũng phải nhận ra rằng: mất hết như thế là may cho chúng ta !

Và rồi chúng ta sẽ tiến vào vòng thứ ba của hy vọng, đây là giang sơn không thuộc về trật tự loài người nữa, mà thuộc về trật tự của Thiên Chúa, thứ trật tự vô danh vô hình. Theo nhận xét của thánh Phao-lô, đây là “điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng phàm chưa hề ý niệm, tất cả những điều Thiên Chúa dọn sẵn cho những kẻ nào kính mến Người.” ( 1 Cr 2, 9 )

Anh chị em hãy trả lời tôi:

Một sự tước đoạt bản ngã con người cách ghê gớm được đề nghị với Giáo Hội ngày nay đang trong những lo âu, bối rối, phập phồng hãi sợ – sự tước đoạt này có ý nghĩa nào khác đối với mỗi giáo hữu và đối với cộng đồng Dân Chúa ? Phải chăng bất cứ sự thần bí nào cũng đặt cơ sở trên thực tại sau đây: đó là lịch sử, là chiến thắng của hy vọng và lòng đơn sơ hồn nhiên theo như lời phán dạy của Đức Ki-tô ?

Xét cho cùng, “cửa hẹp” của Tin Mừng không ai được miễn vượt qua để vào được Nước Trời, chính là sự tuyệt vọng, sự hoang mang hồi hộp, là “con đường tiêu cực” của hy vọng, chẳng giống chút nào với điều mà chúng ta thường gọi là hy vọng, bởi thế chúng ta mới nhận ra điều đó một cách quá ư chậm chạp.

Một lần nữa, anh chị em hãy nhìn vào sự hoang mang bối rối của chúng ta khi đối diện với thế giới, với Giáo Hội, với đời sống chúng ta.

Dĩ nhiên, trên bình diện tâm linh, sự hoán cải chuyển hướng của chúng ta phải trải qua một cơn khủng hoảng tuyệt vọng. Đó chỉ là bề mặt nhìn thấy trong lúc này của chính sức mạnh Thiên Chúa nắm vững trong tay Người những kẻ nghèo hèn, những trẻ thơ, kể từ tổ phụ Áp-ra-ham cho đến thánh nữ Tê-rê-xa thành Lisieux, từ ông Gióp đến thảm kịch Varsovie, Đó không phải là khí thế hào hùng, mà cao hơn thế nhiều. Đó là những cơn đau xé ruột nát gan của một sự tái sinh, là tiếng rên la ghê gớm của một sự sáng tạo, và của một dân tộc đang được hạ sinh trong cơn quằn quại.

Hỡi những ai được hưởng ưu đãi đặc quyền, quý vị có nghe thấy gì không đàng sau tất cả những dáng vẻ che giấu sự thật ?

Hỡi những ai giàu có, những ai mà đời sống được đảm bảo ấm no, quý vị có nhìn thấy gì không ? Quý vị tưởng rằng điều sau đây hãy còn ở mãi tít ngoài xa, rất xa chứ gì ? Nhưng xin quý vị hãy ngó nhìn, hãy lắng nghe những kẻ bị khinh miệt áp bức, những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ nghèo đói, những kẻ bất túc tật nguyền và những trẻ thơ hèn mọn - xin hãy lắng nghe họ trả lời chúng ta.

Tất cả đám người đông đảo ấy, họ đã vào tới vòng thứ ba của hy vọng. Họ đã vào trước chúng ta, đã nghe thấy Thiên Chúa xin họ miễn thứ, đúng thế, Người xin họ miễn chấp về tất cả những điều không thể hiểu được dưới thế này. Và quả thật, họ, cả một dân tộc, đã miễn thứ cho Thiên Chúa về điều mà người phàm chúng ta chưa thể hiểu được...

Lm. BERNARD BRO, OP, bản dịch của cụ LÊ VĂN LỘC ( Hết tập 4 )

 

[1] Chú thích của tác giả, Lm. Bernard Bro: Xin tra cứu “Thiên Chúa tự do hành động” của tác giả G. Hourdin, Paris, 1973.

[2] Chú thích của tác giả, cha Bernard Bro: Xin đọc thêm tác phẩm “Linh Mục Kolbe” của Maria Winowska, tập san “Đời sống thiêng liêng”, số tháng 10 năm 1948.

[3] Trích Tập san “Đời sống tinh thần” số ra tháng 10 năm 1971, từ trang 174 trở đi.

Còn tiếp