Ba dụ ngôn trong chương 15 nói về; con chiên bị lạc được đưa về, đồng bạc đánh mt lại tìm được, đứa con đã mất lại tìm thấy, chết nay sống lại.  Đó là câu trả lời cho việc tại sao Đức Giêsu đến và tại sao Ngài lui tới, ăn uống, chuyện trò với những người bị coi là « tội lỗi ». Câu chuyện người Pharisêu và thu thuế lên đền thờ cầu nguyện hôm nay làm bài học cho những ai tự coi mình là thánh thiện, xemmình là kiểu mẫu để xét đoán, khinh chê và loại trừ người khác.


Đức Giêsu không bao giờ chê bỏ những người cố gắng sống tốt hay muốn làm gương cho người khác, bởi đó là điều đáng khen và càng nhiều gương tốt càng làm cho thế giới đẹp hơn. Nhưng Ngài quyết liệt lên án những kẻ giả hình, hoặc đúng hơn những người không biết sự thật về mình, tưởng rằng mình đạo đức để lấy đó làm thước đo và phân chia vị trí cho người khác. Thật khó để trở thành « thánh gương mẫu » cho người khác đang khi ta cũng giống như mọi người ; những người coi thường người khác không bao giờ trở thành công chính thánh thiện được!


Người Pharisêu và thu thuế là hai cực của một bàn cờ tôn giáo, người được coi là thánh thiện đạo đức tột bậc, kẻ bị coi là hạng tội lỗi ở đáy vực sâu. Người thứ nhất đi tìm sự hoàn hảo và trong sạch theo nghi lễ, kẻ thứ hai là « tội lỗi kép » vì vừa là người thu thuế gian lận, lừa đảo người khác vừa tiếp tay với ngoại bang đàn áp dân mình.Như thế bị đưa ra như một phản chứng có lẽ cũng không oan! Tuy nhiên, ai là người thánh để lấy mình làm chuẩn nếu không phải chỉ mình Thiên Chúa? Vậy mà người Pharisêu lại chiếm vị thế này, thái độ : đứng thẳng, ngẩng đầu, cầu nguyện lớn tiếng theo nghi thức và anh ta « nguyện thầm », có thể anh ta nói với chính mình hơn là gởi đến Chúa, nói về phẩm chất, hành vi đạo đức và công lênh của mình, nội dung lời cầu nguyện rất hợp với tính cách anh sắp sẵn : « xin tạ ơn Chúa », đây là người rất tốt, đạo hạnh, anh đưa cả một danh mục gồm những nhân đức và rất tự hào « vì con không như người khác : trộm cắp, bất chính….hoặc như tên thu thuế kia ». Anh không biết rằng tội lớn nhất là tội kiêu ngạo, lời cầu của anh như kiểu mỉa mai và mỉa mai hơn nữa là nhấn đến từng vấn đề vì diễn tả kiểu kiêu ngạo thiêng liêng, khi giơ ngón tay chỉ người khác tội lỗi thì ba ngón tay khác chỉ vào chính mình, thì ra tôi lại tội lỗi hơn người gấp ba lần. Khi người Pharisêu chỉ cho mọi người thấy người thu thuế tội lỗi thì anh ta lại tự minh chứng mình tội lỗi gấp ba lần. Ba việc đạo đức mà người Do thái thường làm : ăn chay, dâng lễ vật, bố thí, người này đã làm hai việc : ăn chay hai lầnmột tuần và ng một phần mười thu nhập ; quả thật anh ta không như những người khác, anh làm việc đạo đức và đóng góp quá mức yêu cầu, nhưng điều đó không phải tự mình nhận định, lại còn không nên đưa ra trong lời cầu nguyện. Bởi cầu nguyện là dâng lên Chúa lời chúc tụng Chúa với lòng thành chứ không là lúc kể về thành tích tâm linh. Anh không cảm ơn Chúa vì khả năng làm việc thiện, nhưng lại xác tín việc nên công chính là do sức riêng và tin là Chúa vui lòng về việc này. Anh vẽ ra bức tranh rất đẹp, rất hài lòng về mình và nghĩChúa cũng hài lòng về anh. Tuy nhiên đó lại là sai lầm và ảo tưởng !


Về phía người thu thuế, bị liệt hạng « tội lỗi công khai », ai cũng biết anh trong tình trạng nào và chính anh cũng biết mình nên « chỉ đứng xa », xa về địa hình để không làm ô uế cho những người xung quanh, xa về tư tưởng, bởi anh đã không thực thi lề luật, không làm các việc đạo đức và cầu nguyện thường xuyên như những người đạo đức, xa vì thấy không xứng đáng được đến gần nhan Chúa, vì chỉ « ai được ở trong đền thánh Chúa ? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh », tay anh đã vấy bùn làm sao vào nhà Đức Chúa, nên giờ chỉcúi đầu xuống vì thấy mình bất xứng và đấm ngực, anh tự thấy mình nhỏ bé và yếu hèn trước mặt Chúa, sau đó tự xưng : « xin thương xót con là kẻ tội lỗi ! ».  Lời xin trước hết đó là lượng từ bi của Chúa, anh hiểu rằng trước mặt Chúa thì chỉ cậy dựa vào lòngnhân từ của Ngài chứ không thể trông chờ vào nhân đức con người. Sách Talmul nói rằng : người nào đi vào hội đường, nép sau cây cột và cầu nguyện bằng giọng thầm thì, Thiên Chúa sẽ nghe lời họ vì Chúa cũng ở gần các thụ tạo của Ngài như tai ở gần miệng[1].


Câu kết của bài Tin Mừng lật ngược thế cờ như con người thường nghĩ, điển hình nơi người Pharisêu, kết là một sự tương phản rất đẹp, chỉ cần chút can đảm để có thể xưng thú điều gì là thật nơi mình thì tình trạng sẽ lật ngược lại như người thu thuế và người Pharisêu. Kẻ tưởng mình đạo đức thì sau khi cầu nguyện lại trở nên kẻ tội lỗi nặng hơn, nặng không phải vì hành động cầu nguyện nhưng vì thái độ, thực ra không phải anh đến hội đường để cầu nguyện mà là kể thành tích cho Chúa nghe và chờ nơi Ngài sự ân thưởng. Điều tệ hơn nữa là anh ta lấy mình làm thước đo để phán xét người khác, anh đã chiếm chỗ của Chúa bởi chỉ có Chúa mới là người có quyền phán xét và là gương mẫu, thước đo cho con người.


Ai hạ mình trước mặt Chúa sẽ được Ngài nâng lên, còn ai tự đưa mình lên sẽ bị hạ xuống. Có sự tương phản rất lớn trong bài Tin Mừng : người hạng cùng đinh được đưa lên hàng đầu, người ở dưới vực thẳm được nâng lên nơi cao nhất, người bị khinh chê loại trừ được đưa ra làm kiểu mẫu, bởi « những gì thế gian cho là yếu kém thì Thiên Chúa chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có »


Cũng không thể chia hai người này ra riêng mà trong mỗi con người đều có hình bóng « Pharisêu và thu thuế », có phần kiêu hãnh có phần khiêm tốn nhìn nhận sự giới hạn của mình, có phần muốn đưa mình ra như kiểu mẫu, lại có phần thấy mình là kẻ tệ bạc, có khi thấy mình lớn lao, lại có lúc thấy mình nhỏ bé…đó là hai kiểu sống nội tâm.


Được thánh hóa không do việc làm, tài năng con người, nhưng dựa trên sự nhìn nhận thực tế về mình và cậy dựa vào ơn Chúa trợ giúp. Một điều kiện duy nhất được nên thánh là biết rằng mình chưa thánh và để cho Thiên Chúa thánh hóa. Cầu nguyện không phải là việc làm phụ thuộc, nhưng đã được đan dệt trong đời sống tổng quát của một người. Giáo huấn đúng đắn trở thành giáo huấn về cách cư xử đúng đắn !


Nt. Catarina Thùy Dung


[1]X. Nouis, A., Le Nouveaux Testament, tr. 527.