05/06/2022 -

Các khối huấn luyện

285
Ở với Chúa để thi hành đức ái
            
Trong đời sống thiêng liêng, có rất nhiều hình thức cầu nguyện mà các Kitô hữu có thể thực hành: khẩu nguyện, tâm nguyện, trí nguyện,… Tất cả đều dẫn ta đến một mục đích duy nhất là hướng tâm hồn lên tới Chúa. Song việc kết hiệp với Ngài không chỉ dừng lại ở các khoảnh khắc nơi Nhà nguyện, Nhà thờ, mà còn được tiếp diễn trong mọi giây phút của ngày sống. Nhìn lại mẫu gương của các thánh, có thể dễ dàng nhận ra điểm chung của các vị ấy: việc ở lại với Chúa là một khát khao, một nỗ lực, một điều khẩn thiết, mang lại sức mạnh và động lực trên con đường trọn lành. Hãy nhìn lại cách thức cầu nguyện mà thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã áp dụng để thi hành đức Ái: ở lại với Chúa trong mọi nơi, mọi lúc và mọi người.
           
Trong một chương sách viết về đức ái, thánh nữ đã chia sẻ những cảm nghiệm của bản thân về việc thực hành nhân đức này, và từ đó, ngài rút ra được những hiểu biết của mình về các “mầu nhiệm thẳm sâu của đức ái.”
      
Trước mỗi tư tưởng của mình, thánh nữ đều trích dẫn Lời Chúa. Những câu như “Chúa Giêsu nói”, “Chúa Giêsu truyền” được lặp lại hầu như suốt chương sách ấy. Ngài đã tự thú nhận rằng: “Nếu con không có chính các lời của Giêsu làm chỗ dựa, hẳn con đã phải xin Mẹ cho con dẹp bỏ cây bút đi…” Nếu không có những giờ phút suy chiêm và tâm niệm Lời Chúa cách liên lỉ, ngòi bút của chị thánh hẳn đã không có sức tác động mạnh mẽ đến vậy.
Khởi đi từ những suy tư của mình về đức ái, thánh nữ đã triển khai một cách sâu sắc những bài học, những cách thức để thực hành và rèn luyện nhân đức ấy. Tất cả đều được soi chiếu dưới ánh sáng của Lời Hằng Sống, bắt đầu từ giới răn mà Đức Giêsu đã truyền dạy: “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau.”

Hiểu rõ được sự yếu đuối của mình, chị thánh đã nhìn nhận rằng không bao giờ chị có thể yêu thương chị em như Chúa đã yêu các chị. Nhưng điều Chúa đã dạy thì không hề bất khả thi: chính Chúa đã yêu thương mọi người trong chị; Chúa đã thúc đẩy con tim chị, để chị yêu mến những người mà Chúa đã truyền cho chị yêu mến; Chúa đã hành động trong chị khi chị sống bác ái, và khi càng kết hiệp với Ngài, chị càng yêu mến tất cả các chị em. Những đúc kết này quả thật tương đồng với điều mà thánh Phaolô đã xác quyết: “Đức Kitô sống trong tôi”.

Từ lời giáo huấn của Chúa Giêsu về hình ảnh của chiếc đèn dầu (Mt 5,15), thánh nữ đã hiểu rằng chiếc đèn ấy biểu trưng cho đức ái: đức ái phải soi sáng, phải chiếu tỏa đến tất cả mọi người, không chỉ đối với những ai mà chị yêu mến. Vì lẽ đó mà dầu cho có gặp phải rất nhiều những trái ý trong công việc, trong các khoảnh khắc thường ngày, phải sống chung và chịu đựng những chị em chẳng hợp với tính cách của mình, chị đã không ngừng nỗ lực, bằng nhiều cách thế, từ trong tư tưởng cho đến hành động, hầu yêu thương chị em, theo khuôn mẫu và nguồn lực của Chúa Giêsu – Đấng chị sùng kính mến yêu khôn cùng. Giêsu đã cùng đi với chị, đã cùng sống với chị, đã cùng chiến đấu với chị, trong cuộc chiến đấu lâu dài và cam go.

Vì luôn xác tín rằng Đấng xét xử mình chính là Chúa (1 Cr 4,3-4), chị ước mong rằng mình sẽ luôn luôn có những tư tưởng bác ái, để mai này khỏi phải bị xét đoán nặng nề trước ngai toà Chúa (Lc 6,37). Khi ma quỷ phơi bày ra trước mặt chị những khuyết điểm của chị em, chị vội tìm kiếm các nhân đức của chị em ấy; các ước muốn tốt lành; các chiến thắng mà chị em ấy đã giành được nhưng đã âm thầm che giấu vì khiêm nhường, để khỏa lấp những vấp ngã mà chị đã thấy nơi người chị em; cùng với những phán đoán tốt lành về nguyên do của khiếm khuyết ấy: có thể là vì ý tốt thực hiện một hành vi nhân đức. Về phía bản thân, chị đã tự nhủ rằng: “Nếu người ta coi hành động nhân đức của con là khuyết điểm, thì người ta cũng có thể lầm khi coi khuyết điểm của con là nhân đức”, nhờ thế chị tránh được tính tự phụ trong những cách đánh giá tích cực của mọi người về mình.

Sống trong cộng đoàn với rất nhiều những sự việc phức tạp, ta rất khó kết luận những phải - trái, đúng - sai của chị em một cách tuyệt đối. Bởi chỉ có Chúa thấu suốt tâm can mỗi người (1Sm 16,7b), bên cạnh đó, làm sao ta thấu hiểu ngọn nguồn động cơ, nguyên cớ dẫn đến các hành động của chị em. Vì thế, hãy thanh thoát và khách quan hơn trong cách nhìn nhận và đánh giá sự việc và con người, hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước, để thấy rõ mà lấy cái rác ra khỏi mắt tha nhân (Mt 7,5). Hãy kính sợ sự công minh và toàn năng của Thiên Chúa, nhờ đó ta có thể bao dung với mọi người và tự hạ đối với chính mình.

Thánh Têrêsa đã không ngừng ấp ủ những tư tưởng tốt lành về chị em, để có thể yêu thương người ấy bằng những suy xét khách quan đến từ Thiên Chúa. Hơn thế nữa, ngài còn tự nhủ rằng đức ái không hệ tại tình cảm, nhưng hệ tại việc làm (1Ga 3,18). Thế là chị không chỉ nghĩ tốt, mà còn ra sức làm cho những người chị em các điều chị thường làm cho người mà chị yêu mến. Chị cầu nguyện cho người chị em, chị dâng lên Chúa tất cả những nhân đức và việc lành của chị ấy, chị cố gắng thực hiện những việc phục vụ chị em ấy trong tất cả những gì chị có thể, chị nở một nụ cười dễ thương và cố gắng lảng sang chuyện khác khi bị cám dỗ đối đáp lại với chị ấy một cách khó chịu. Chị đã làm tất cả không phải để được chị em ấy cảm mến nhưng chỉ vì điều ấy đẹp lòng Chúa Giêsu. Chị thiết tưởng rằng Giêsu – Nghệ Nhân của các tâm hồn, sẽ sung sướng dường bao khi người ta không dừng lại ở vẻ bề ngoài, nhưng còn đi sâu vào tận bên trong thánh điện mà Người đã chọn làm chỗ ở của Người và ca tụng vẻ đẹp của nó.

Giữa rất nhiều chị em mà mỗi người đều mang những bản sắc khác nhau, làm sao có thể nhìn thấy và lưu giữ những vẻ đẹp - có khi rất tiềm tàng của người chị em ấy, nếu không mang nhãn quan của chính Giêsu – Đấng giàu lòng mến thương?

Có một điều đáng nói ở đây về cách đối xử của thánh nữ đối với các chị em mà ta không thể bỏ qua, đó là sự nỗ lực lớn lao của ngài khi những điều tốt đẹp ấy lại dành cho một người chị em khiến thánh nữ rất khó chịu, đến nỗi mọi thứ nơi chị ấy trở nên “rất đáng ghét” đối với ngài. Và kết quả của những nỗ lực này lại rất diệu kỳ, khi người chị em ấy lại hỏi một câu với vẻ rất hài lòng, rằng điều gì nơi chị ấy có sức thu hút thánh nữ đến vậy, vì chị ấy luôn luôn thấy ngài mỉm cười khi gặp chị ấy. Sẽ là điều gì khác, nếu không phải là vì ngài đã khám ra dáng dấp của Giêsu, vì ngài đã cảm thức một điều thiêng liêng nơi sâu kín con người chị em ấy? “A! Cái thu hút con chính là Giêsu ẩn dưới đáy tâm hồn chị ấy… Giêsu làm cho những gì cay đắng nhất trở nên dịu ngọt nhất…”

Trước một người chị em mà ta khó đón nhận, ta sẽ bất lực để cho những điều tiêu cực chiếm hữu tâm hồn và lòng trí, hay sẵn sàng mở ra cho Giêsu đổ đầy những xúc cảm lành thánh? Chỉ dựa vào ấy, ta mới có thể thay đổi cách nhìn nhận về chị em, và dần dần vượt qua những rào cản cố hữu để tiến gần hơn với họ trong tình yêu thương.

Đức ái là một nhân đức cốt lõi, là một cứu cánh đắc lực hữu hiệu trong sự hiệp nhất của một cộng đoàn, đặc biệt là một cộng đoàn thánh hiến. Và một phương thế nhanh chóng, bền vững và thánh thiện nhất chính là việc gắn kết với Đức Giêsu và để cho Ngài sống trong ta. Nếu ta nhìn với đôi mắt Giêsu, hành động với chi thể của Giêsu, và yêu mến bằng quả tim nồng ấm của Ngài, ta đang thắp lên một đốm sáng thiêng liêng trong ngôi nhà chung mà tất cả mọi thành viên được quy tụ bởi Người Mục Tử nhân lành ấy.

 
Trúc Giang - Thỉnh sinh

 
114.864864865135.135135135250